Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên và truyền thống văn hóa

10:46 18/09/2020

Lĩnh Nam ngày nay là một trong 14 phường của Quận Hoàng Mai, có diện tích 560,20 ha, dân số 26.717 người; có địa giới hành chính phía Đông giáp huyện Gia Lâm; phía Tây giáp các phường Vĩnh Hưng, Yên Sở; phía Nam giáp phường Trần Phú và huyện Gia Lâm, phía Bắc giáp phường Thanh Trì. Phường Lĩnh Nam có hệ thống giao thông đường thủy, đường bộ nối liền với thành phố tạo nên một cảnh quan và địa thế khá đẹp. Đi trên đê sông Hồng từ Vĩnh Tuy đến phà Khuyến Lương có thể chiêm ngưỡng được toàn cảnh "sông nước hữu tình" của một làng quê trù phú có bề dày lịch sử.

Phường Lĩnh Nam trước đây thuộc huyện Thanh Trì. Sách Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán triều Nguyễn chép huyện Thanh Trì: "Xưa là châu Long Đàm, lệ vào phủ Giao Châu[1]. Vào thời thuộc Minh (1407- 1426), năm Vĩnh Lạc thứ 5 (1407), cùng với việc đổi Thăng Long thành Đông Quan, nhà Minh cũng cho đổi Long Đàm thành Thanh Đàm[2]; đến thời Lê Trung hưng, vì kiêng tên húy Duy Đàm của vua Lê Thế Tông (1573- 1600) mới đổi thành Thanh Trì. Sau lại đổi chữ Thanh có nghĩa là trong thành chữ Thanh có nghĩa là xanh. Thanh Trì vào thời Nguyễn có 12 tổng, 100 xã, thôn, phường châu[3]. Tổng Thanh Trì có 9 xã, thôn, sở. Đó là: Đồng Nhân châu, Khuyến Lương, Nam Dư, Tế Trường, Thanh Trì, Thúy Lĩnh, Yên Duyên, Sở Thượng và Yên Hương[4]. Trong 9 xã thôn trên thì 2 xã Nam Dư và Thúy Lĩnh nguyên là vùng đất thuộc Lĩnh Nam sau này.

Lĩnh Nam ngày nay được hình thành từ những làng cổ có bề dày lịch sử và được con người đến khai phá, sinh cơ lập nghiệp từ sớm. Trải qua quá trình lịch sử lâu dài, bao lần tách nhập, Lĩnh Nam bao gồm 3 thôn: Nam Dư Thượng, Thúy Lĩnh và Trung Lập. Vào thời điểm trước năm 1945, thôn Nam Dư Thượng và thôn Thúy Lĩnh nguyên là đất của các xã Nam Dư và xã Thúy Lĩnh, tổng Thanh Trì, huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, thôn Nam Dư Thượng cùng với các thôn của Vĩnh Tuy, Thanh Lân, Thanh Trì hợp thành xã Vạn Xuân. Thôn Thúy Lĩnh cùng với thôn Nam Dư Hạ hợp thành xã Lĩnh Nam thuộc quận VI, Hà Nội. Đến năm 1955, ba thôn: Nam Dư Thượng, Thúy Lĩnh và Trung Lập[5], hợp thành xã Lĩnh Nam thuộc quận VII, Hà Nội. Từ năm 1961 đến năm 2003, xã Lĩnh Nam thuộc huyện Thanh Trì, ngoại thành Hà Nội. Theo Nghị định số 132 ngày 6-11-2003 của Chính phủ, xã Lĩnh Nam trở thành phường Lĩnh Nam thuộc quận Hoàng Mai, Thành phố Hà Nội.

Ba thôn Nam Dư Thượng, Thúy Lĩnh và Trung Lập của Lĩnh Nam đều có nguồn gốc xa xưa, trong đó, thôn Nam Dư Thượng và thôn Thúy Lĩnh trước đây vốn là làng Nam Dư Thượng và làng Thúy Lĩnh, có nguồn gốc từ làng Đông Dư (nay là xã Đông Dư, huyện Gia Lâm, Hà Nội). Theo ký ức của nhân dân địa phương cho biết, dân làng Đông Dư đã di cư từ bờ Đông sang bờ Tây sông Hồng khai phá đất đai trù phú ven sông để sinh cơ lập nghiệp, rồi lập nên làng xã mới. Những người dân di cư trong những ngày đầu tiên ấy là thuộc các dòng họ: Nguyễn, Lưu, Vũ và Đỗ, sau đó mới có thêm các dòng họ khác. "Vạn sự khởi đầu nan", trong buổi bình minh "khai thiên lập địa", người dân di cư sang bờ Tây sông Hồng còn gặp rất nhiều khó khăn, lương ăn chưa đủ, phải do bên Đông Dư cung cấp. Vì còn phải sống nhờ quê cũ nên họ đã gọi tên làng mình là làng Dựa. Sau một thời gian, cuộc sống ổn định, ruộng đất đã khai phá thành thục, làng xóm mọc lên, dân cư đã thêm đông đúc, người dân nơi đây mới đặt tên làng là Nam Dư - Nam Dư đối với Đông Dư.

Bên Đông đã có Đông Dư thì bên Tây phải có Nam Dư. Với chữ "Dư" mà dân làng dùng, theo từ điển chỉ dẫn thì đó là vùng đất đã được khai phá thuần thục từ vài năm trở lên. Như vậy, Đông Dư và Nam Dư xưa là vùng đất đai do chính bàn tay của con người khai phá mà thành. Sau này dân cư phát triển nhiều lên, đất đai cũng được mở rộng thêm, làng Nam Dư được tách làm hai thôn: Thôn trên là Nam Dư Thượng, thôn dưới là Nam Dư Hạ. Giống bên quê gốc Đông Dư đã có Đông Dư Thượng và Đông Dư Hạ. Cả Nam Dư Thượng và Nam Dư Hạ cùng có tên Nôm là Kẻ Dựa. Kẻ Dựa có lẽ được bắt nguồn từ tên làng Dựa mà ngay từ thuở khai thiên lập địa, khi còn phải sống nhờ vào quê cũ đã được các cụ đặt cho. Bên Đông Dư có nghề trồng rau phát đạt thì bên Nam Dư cũng vẫn phát triển nghề trồng rau cổ truyền ấy.

Đến cuối thế kỷ XVII, Nam Dư đã là một làng quê trù phú. đất đai màu mỡ, đồng ruộng tốt tươi, dân cư đông đúc, của cải dư thừa. Tuy chưa xác định rõ, làng ra đời cụ thể vào thời điểm nào nhưng làng được hình thành trong một bối cảnh lịch sử chung của công cuộc khẩn hoang, mở rộng đất đai canh tác của cha ông chúng ta. Theo tộc phả họ Vũ cho biết ngay từ thời Lê (thế kỷ XV) ở đất Lĩnh Nam đã có ông tổ của họ Vũ làm quan tới hàm lục phẩm và được triều đình ban ruộng đất ở hương Tây Trà - nơi ông sinh sống làm bổng lộc, mà họ Vũ lại là một trong bốn dòng họ đến khai thiên lập địa và sinh cơ lập nghiệp ở vùng đất này sớm nhất. Từ đó chúng ta có thể hiểu được rằng làng xã ở đây phải có sớm hơn nữa và như vậy làng Nam Dư ít nhất phải có trước và xa hơn thế kỷ XV rất nhiều.

Từ ngày làng được thành lập cho đến nay, làng vẫn giữ được tên Nôm là Kẻ Dựa. Theo kết quả nghiên cứu của một số chuyên gia nghiên cứu về "Tên các làng Việt cổ"[6] chúng ta biết được tất cả những nơi có địa danh mang tên nôm là Kẻ, như: Kẻ Dựa, Kẻ Mui, Kẻ Sét, Kẻ Mơ, Kẻ Gióng... đều được hiểu đó là một vùng đất cổ kính có niên đại khá sớm khoảng trước thế kỷ thứ X. Theo tác giả Bùi Thiết thì "Làng Việt cổ là những đơn vị cư trú của dân Việt cổ, tồn tại trong khoảng thời gian từ 3000 - 4000 năm trước Công nguyên đến 1000 năm sau Công nguyên, tức là khởi đầu của các vua Hùng dựng nước đến thế kỷ X sau Công nguyên. Các làng Việt cổ được gọi là "Kẻ"[7]. Tên Việt cổ được gắn liền với làng Việt cổ, sau khi trở thành làng Việt mới, thì tên Việt cổ trở thành tên phụ và thường được gọi tên tục hay tên nôm. Cụ thể, tên Kẻ Dựa của hai làng Nam Dư Thượng và Nam Dư Hạ là tên Việt cổ có từ ngay sau khi hình thành làng xã. Dựa biến âm thành Dư. Tên làng nguyên thủy lúc đầu là Kẻ Dựa, sau biến âm Hán Việt thành Nam Dư. Đặt trong bối cảnh chung của các làng Việt cổ thì làng Nam Dư ngày nay chính là do kết quả của quá trình hình thành và phát triển của làng Dựa xưa. Như vậy, chúng ta có thể khẳng định được rằng Nam Dư chính là một làng Việt cổ, có cư dân sinh sống và định cư từ khá sớm.

Cùng với Nam Dư, Thúy Lĩnh cũng có lịch sử hình thành từ sớm. Thúy Lĩnh có đặc điểm là một vùng đất bãi kề sông ngoài đê, trước kia cũng được dân làng bên sông khai phá và lập nên làng xóm. Là vùng đất bãi màu mỡ thuận lợi cho việc trồng rau màu, nên dân làng ở đây ngay từ buổi ban đầu đã chuyên sống bằng nghề trồng rau xanh và đặc biệt là nghề trồng dâu, chăn tằm. Vì chuyên nghề trồng dâu, quanh năm xanh ngát nương dâu nên người ta còn gọi Thúy Lĩnh với một tên khác hay hơn đẹp hơn là Thúy Ái. Nghề trồng dâu chăn tằm từ lâu đã trở thành nghề truyền thống của làng nên dân làng ở đây còn lưu truyền câu ca dao:

Trồng mía kéo mật làm giàu

Nam Dư, Thúy Ái trồng dâu nuôi tằm

Tuy được lập nên ở vùng đất bãi ven sông, hàng năm nước ngập đến hai ba tháng, nhưng nhân dân ở đây vẫn bền bỉ dẻo dai bám đất, bám làng, lao động cần cù xây dựng cuộc sống không chỉ no ấm đầy đủ về vật chất mà còn duy trì được những thuần phong mỹ tục tốt đẹp. Hiện nay làng vẫn còn giữ được ngôi miếu Tiết liệt linh từ (tục gọi là Miếu Bà), trong miếu có một bia thời Tự Đức (1858). Gần miếu là ngôi chùa Diên Khánh còn khá đẹp, lưu giữ chuông và nhiều tượng quí. Cạnh chùa là đình làng, tục gọi là đình Thúy Lĩnh. Đình đã được Nhà nước xếp hạng di tích lịch sử vào năm 1993. Đình làng Thúy Lĩnh còn giữ được Ngọc phả ghi sự tích vị thành hoàng làng là "Linh Lang đại vương", giống thành hoàng làng bên Đông Dư và một số địa phương lân cận.

Về lịch sử hình thành làng Thúy Lĩnh, cho đến nay, vẫn chưa có tư liệu để khẳng định một cách chính xác, chỉ biết rằng Thúy Lĩnh vốn là một làng cổ, dân chúng từ lâu đời đã tụ cư tại đây, dựa vào đất bãi trù phú ven sông để trồng dâu chăn tằm làm kế sinh sống. Qua phát hiện khảo cổ học, các nhà nghiên cứu đã tìm thấy tại Thúy Lĩnh những đồng tiền Khai Nguyên Chi Bảo thuộc niên hiệu vua Đường Huyền Tông (722-790) và tiền đồng Chí Hòa Nguyên Bảo thuộc niên hiệu vua Tống Nhân Tông (l028-l065). Từ đó, có thể đoán định rằng Thúy Lĩnh là một vùng đất cổ và cũng là một làng Việt cổ.

Dân làng Thúy Lĩnh vẫn còn duy trì được lễ hội cướp cầu. Lễ hội cướp cầu có nguồn gốc từ thời Linh Lang đại vương (thời Lý) - vị phúc thần thờ làm thành hoàng của làng. Cho đến thế kỷ XV (thời Lê), vua Lê Thánh Tông khi đi tuần du ở phương Nam về "ngự thuyền" đỗ ở bến Thúy Lĩnh, tức cảnh đã làm một bài thơ. Bài thơ đó còn được lưu truyền và ghi lại trong bộ biên niên sử. Những sự kiện sau này ở các thế kỷ XVI, XVII, XVIII trở đi, Thúy Lĩnh luôn là vùng đất có vị thế quan trọng diễn ra các trận thủy chiến. Tất cả những sự kiện trên, tuy chưa phải là tài liệu trực tiếp nhưng đủ cắt nghĩa sự cổ kính của vùng đất và sự tụ cư khá sớm của cư dân Việt cổ đến sinh cơ lập nghiệp ở Thúy Lĩnh. Vì là vùng đất bãi bồi nên so với làng Nam Dư Thượng chắc chắn làng Thúy Lĩnh phải hình thành muộn hơn.

Thúy Lĩnh có một địa thế rất đẹp, đồng thời còn có một vị trí hết sức quan trọng trên đường thủy theo sông Hồng về phía nam kinh thành Thăng Long. Nằm kề sông, lại có địa hình đặc biệt, có bờ, có bến nên trong lịch sử dân tộc, vùng đất Thúy Lĩnh đã làm nên nhiều chiến công. Trong thời kỳ chống giặc ngoại xâm, Thúy Lĩnh từng là nơi yết hầu quan trọng ở phía Nam Thăng Long. Trong chiến tranh cách mạng, Thúy Lĩnh đã phát huy vị trí tiền tiêu, vừa là nơi tập kết và chuyển cán bộ, quân lương, đồng thời là nơi tập trung lực lượng cách mạng trong vùng khi các mặt trận xung quanh bị vỡ, các cơ sở cách mạng quanh vùng bị lộ đều được tập trung về mặt trận Thúy Lĩnh.

Về lịch sử làng Trung Lập, theo sự tích được ghi trong bản Ngọc phả còn lưu lại tại đình làng Trung Lập cho biết: Làng Trung Lập được hình thành do những tù binh người Chiêm bị bắt trong cuộc chiến tranh với Chiêm Thành thời vua Lê Thánh Tông cuối thế kỷ XV. Bản Ngọc phả ghi rõ: "Nhà vua (Lê Thánh Tông) ban chiếu chỉ, phàm những nơi đất hoang dã, cho tù binh Chiêm khai phá trồng cấy lập nghiệp để sinh sống. Tại Tây Trà thuộc huyện Thanh Đàm (Lĩnh Nam bây giờ) có vùng đất màu mỡ, người Chiêm sinh sống tại đây"[8] . Đặc biệt, trong đình làng Trung Lập hãy còn vật thờ và thờ hai vợ chồng người Chiêm tên là Nha Cát Đại vương và công chúa Nguyệt Nga được vua Lê phong là Phúc thần. Đất làng Trung Lập thuộc phường Lĩnh Nam ngày nay vốn là một phần đất của làng Vĩnh Tuy, nằm trong trang Vĩnh Hưng đồn điền sở từ cuối thế kỷ XV mà thành. Hiện nay, trong đình làng Trung Lập còn lưu lại hiện vật đề địa danh "Trang Vĩnh Hưng" và chính đình làng Trung Lập còn có tên khác là "Vĩnh Hưng Trung đình". Cái tên đó đã phản ánh đầy đủ cội nguồn của nó. Tên Vĩnh Hưng Trung đình là tên đầu tiên từ Vĩnh Hưng đồn điền sở mà thành. Trong sách Dư hạ tập có ghi: Cả nước cho đến thời Hồng Đức (1470-1497) có 43 sở đồn điền. Khu vực miền Bắc có 30 sở, trong 30 sở thì sở Vĩnh Hưng là sở được ghi tên đầu tiên trong danh mục đó. Đến năm Bảo Đại thứ 10 (1935), thôn Trung Lập thuộc xã Vĩnh Tuy, tổng Hoàng Mai, huyện Hàm Long.

Trải qua hàng nghìn năm lịch sử, cư dân sinh sống trên miền quê Lĩnh Nam phát triển ngày càng đông đúc. Có những dòng họ đến sinh sống ở đất Lĩnh Nam từ rất sớm nhưng cũng có dòng họ mới đến đây cư trú. Mười bốn dòng họ đang đoàn kết chung sức xây dựng quê hương, đó là họ: Nguyễn, Lê, Lưu, Trương, Dương, Vũ, Đỗ, Trần, Phạm, Phùng, Tạ, Hoàng và Đinh. Tuy không cùng một dòng họ nhưng tất cả cư dân nơi đây đều xác định là cùng chung một quê hương Lĩnh Nam, cho dù là làng Nam Dư, Thúy Lĩnh hay Trung Lập, họ đều chung sống trong tình tương thân, tương ái, tối lửa tắt đèn có nhau và cùng nhau xây dựng nên quê hương Lĩnh Nam giàu mạnh như ngày hôm nay. Trước năm 1954, cư dân ở đây mới có khoảng 3.800 người. Đến năm 1960, sau 5 năm khi ba thôn hợp thành một xã, dân số đã phát triển lên tới 4.881 người. Mười năm sau, thời điểm năm 1970, dân số Lĩnh Nam tăng lên 6.116 người; đến năm 1980 là 7.755 người và năm 1990 là 9726 người. Đến thời điểm tổng điều tra dân số năm 1999, dân số cả xã có 11.346 người. Năm 2003, khi trở thành phường Lĩnh Nam thuộc Quận Hoàng Mai, dân số của phường là 12.829 người.

Dân cư Lĩnh Nam sinh sống bằng nghề nông, chuyên cấy lúa và trồng rau màu, nên phong tục ở đây chất phác và thuần hậu. Việc học hành đỗ đạt ở làng không nhiều, nhưng theo sự tích còn lại của một số dòng họ thì thấy rằng làng xưa kia đã có người đỗ đạt làm quan từ khá sớm. Theo Vũ Văn tộc phả sơ yếu (Sơ thảo về tộc phả họ Vũ) tại Lĩnh Nam thì trong họ Vũ đã có một người đỗ đạt làm quan từ thời Lê được phong hàm lục phẩm, có công nên được triều đình ban lộc điền ở làng. Tộc phả còn ghi lại rằng: "Cao cao tổ khảo Vũ Văn Lý, sinh Nhâm Ngọ niên, cư hương Tây Trà, Sơn Nam Thượng trấn. Quang Thái ngũ niên, tự Phúc Lâm, hiệu Quý Đường, Lê triều phong lục phẩm hàm, ban lộc điền trang hương lệ, từ trần nhị thập nguyệt sửu, Bính Ngọ niên"[9] (Tức ông thủy tổ của chi họ Vũ, tên là Vũ Văn Lý, sinh vào năm Nhâm Ngọ, người ở hương Tây Trà, trấn Sơn Nam Thượng, năm Quang Thái thứ năm, ông tự là Phúc Lâm, hiệu là Qúy Đường. Vào triều Lê, ông được phong hàm lục phẩm và được phong lộc điền trang ở quê hương. Ông mất ngày 20 tháng 12 năm Bính Ngọ). Như vậy, vào thời Lê (thế kỷ XV), họ Vũ ở vùng đất Tây Trà, nay thuộc Nam Dư Thượng đã có ông Thủy tổ làm quan tới hàm lục phẩm (một trong 9 phẩm - cửu phẩm) được nhà vua ban lộc điền, chứng tỏ ông là người có công trong triều mà tộc phả không ghi lại.

Đến những thế kỷ sau này trong làng cũng có nhiều người đỗ đạt. Theo "Tộc phả của chi thứ tư - tộc đại Nguyễn"[10] Lĩnh Nam ghi: Cụ Nguyễn Hữu Phương theo học trường Tú tài thôn Tự Pháp, Hà Nội và thi đó tú tài khoa thi Nhâm Tý năm Tự Đức thứ 15 (1862), sau được bổ làm Lý trưởng tại thôn, ông là người cương trực thẳng thắn, vì dân. Sau ông xin từ quan về nhà dạy con cái học chữ thánh hiền.

Như vậy, trải qua bao đời sinh tụ trên mảnh đất có bề dày lịch sử - văn hóa, dân cư Nam Dư, Thúy Lĩnh và trang Vĩnh Hưng xưa, nay là Nam Dư Thượng, Thúy Lĩnh và Trung Lập của phường Lĩnh Nam, quận Hoàng Mai, Hà Nội, không ngừng phát triển và có nhiều đóng góp với quê hương trong tiến trình lịch sử. Lĩnh Nam ngày hôm nay phần lớn là do sự hội tụ của cư dân từ nhiều nơi, với công sức từ bàn tay và khối óc của nhiều đời tạo dựng nên.

Lĩnh Nam cũng như nhiều vùng đất của Thăng Long - Hà Nội, có bề dày lịch sử và truyền thống cách mạng. Cả ba thôn Nam Dư Thượng, Thúy Lĩnh và Trung Lập của Lĩnh Nam ngày nay đều có lịch sử xa xưa và mang nhiều huyền thoại cùng sự tích gắn bó mật thiết với dòng sông mẹ Hồng Hà. Tuy là ba thôn của một xã, nhưng vốn dĩ là đất riêng của ba làng. Mỗi làng đều có một lịch sử hình thành và mỗi làng đều có một nền văn hóa vật thể cùng những sinh hoạt văn hóa riêng biệt. Làng nào cũng có đình làng và chùa làng của riêng mình. Đến nay cả ba làng hãy còn lưu lại và tạo dựng lại được vốn văn hóa vật thể quí giá của mình là các ngôi đình và ngôi chùa. Trong mỗi ngôi đình và ngôi chùa của từng làng đều có sự tích riêng về những vị phúc thần của từng làng.

Đình Nam Dư Thượng: Đình Nam Dư Thượng thuộc thôn Nam Dư Thượng, nằm ngay chính giữa thôn, quay theo hướng Đông Nam , có diện tích khoảng hơn 1000 m2. Theo ký ức của nhân dân địa phương, ngôi đình từ ngày tạo lập đến nay vẫn ở nguyên vị trí cũ. Qui mô của ngôi đình rất bề thế. Trước đình là một hồ nước hình bầu dục. Sân đình rộng, hai bên là hai dãy nhà chạy dài, mỗi bên gồm bảy gian. Đại đình có 5 gian 8 mái cùng các đầu đao cong được đắp nổi bằng các hình rồng phượng rất tinh xảo. Trải qua bao năm tháng chiến tranh, cộng với sự phong hóa của thiên nhiên, phần lớn các kiến trúc của đình không còn lưu giữ được diện mạo ban đầu. Mấy năm gần đây, được sự quan tâm của các cấp chính quyền, các tổ chức đoàn thể cùng sự đóng góp tích cực về vật chất và tinh thần của quần chúng nhân dân, ngôi đình Nam Dư Thượng đã được trùng tu rất bề thế. Tuy kiến trúc của ngôi đình không hoàn toàn tạo dựng lại được như xưa, nhưng hiện vật còn lưu giữ được trong đình rất phong phú và có giá trị lịch sử, bao gồm: Một quyển thần phả bằng chữ Hán, l6 sắc phong do các triều vua phong tặng, sắc sớm nhất thuộc niên hiệu Cảnh Hưng 44 (1783), sắc muộn nhất thuộc niên hiệu Khải Định thứ 9 (1924), một chuông đồng và một khánh đồng đúc năm Khải Định thứ 4 (1919), 4 ngai bài vị, 2 hoành phi, 4 cuốn thư, 3 đôi câu đối. Đặc biệt trong đình còn giữ được 2 cỗ kiệu lớn mang phong cách nghệ thuật thế kỷ XVII-XIX.

Đình Nam Dư Thượng thờ hai vị thành hoàng là Minh Hoa An quốc Đại vương cùng vợ là Hoàng phi húy Trân và Đương thống Đại vương cùng phu nhân là Nguyệt Thái công chúa. Vì kiêng húy của hai vị thành hoàng, dân làng Nam Dư Thượng đã gọi chệch chữ "Hoa" thành chữ "Huê" như "bông hoa" gọi thành "bông huê" và chữ "Thái" thành chữ "sắt" như "thái thịt" thành "sắt thịt" hoặc "thái" gọi thành "thới" như "thới bình".

Trong bản thần phả của đình làng còn ghi rõ về những sự tích của hai vị thành hoàng Minh Hoa An quốc Đại vương và Đương Thống Đại vương. Về Minh Hoa An quốc Đại vương, thần phả cho biết: Vào thời Hùng Vương thứ 18, Hùng Duệ Vương sinh được 28 con trai, trong đó có Hoa Công tên là Hoa Vi, thông minh dĩnh ngộ, mặt mũi khôi ngô tuấn tú, lại có tài trị nước, yên dân. Vì thế Vua ban cho tên hiệu là An Quốc Đại vương (vị đại vương có tài trị quốc yên bình), sau này lấy vợ là Trân phu nhân. Thời đó nhân dân trong nước đang sống trong cảnh thanh bình. Đại vương hàng ngày dạo chơi. Một hôm đến xã Tây Trà, huyện Thanh Đàm, Đại vương thấy cảnh đồng ruộng màu mỡ, dân cư đông đúc bèn cho lập cung điện ở đó, khuyến khích dân làng đẩy mạnh trồng dâu chăn tằm.

Còn Đương Thống Đại vương (hay Thống công Đại vương) vốn là con rể của vua Hùng Duệ Vương. Vua Hùng Duệ Vương sinh được hai người con gái xinh đẹp. Công chúa lớn lên là Tiên Dung lấy Chử Đồng Tử, công chúa thứ hai là Mỵ Châu đang tuổi trăng tròn đẹp như tiên sa. Duệ Vương dựng thành lầu ở Việt Trì kén rể. Tản Viên Sơn Thánh cùng với em là Thống Công cùng ra sông Bạch Hạc (sông Hồng) ứng thí. Với tài biến hóa thần thông của mình, Sơn Thánh được Duệ Vương đồng ý kén làm rể. Sau Sơn Thánh lại tiến cử Thống Công. Vua thấy Thống Công cũng là một người trai hiền lành, có tài bèn gả công chúa Nguyệt Thái cho. Khi đó An Quốc Đại vương đã mất, Sơn Thánh bèn cử Thống Công cùng Nguyệt Thái ở lại cung Tây Trà chăm sóc Hoàng phi Trân. Thống Công chăm lo giúp đỡ nhân dân, được dân trong vùng mến mộ cảm phục.

Cũng như bao ngôi đình ở các làng quê của đồng bằng Bắc Bộ, ngoài việc thờ thành hoàng, đình Nam Dư Thượng còn là một trung tâm văn hóa chính trị của làng. Xưa kia nhiều việc quan trọng của dân làng được đem ra bàn bạc giữa chốn đình trung. Những năm trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, ngôi đình Nam Dư Thượng là nơi hội họp gặp gỡ bí mật của những cán bộ cách mạng địa phương. Vào năm 1945, đình Nam Dư Thượng cũng là nơi nhân dân trong xã tổ chức mít tinh giành chính quyền về tay cách mạng.

Chùa Nam Dư Thượng: Chùa Nam Dư Thượng, tên chữ là "Nghiêm thắng tự". Chùa nằm ở phía Tây Nam của Phường với diện tích hơn 6000 m2. Chùa được xây theo kiểu chữ Công. Qua cửa tam quan vào chùa chính gồm 5 gian. Tòa nhà mẫu nằm ngay bên trái của chùa chính xây dựng theo kiểu "chồng giường giá chiêng". Sau cùng là phần nhà tổ, nhà tăng, nhà bếp gồm 6 gian, 3 gian sát tòa nhà mẫu dùng làm nơi thờ tổ gian giữa là một bệ thờ, ba bậc trên cùng đặt tượng Phật. Hệ thống tượng Phật ở chùa Nam Dư Thượng không lớn lắm, nhưng cũng tương đối đầy đủ và được sắp xếp khá chuẩn trên Phật điện. Tổng cộng có gần 30 pho tượng và được bài trí theo thứ tự: Hàng thứ nhất là bộ tượng tam thế. Hàng thứ hai là bộ tượng Adiđà tam tôn với pho Adiđà ở giữa. Hàng thứ ba là tượng Đức giáo chủ bổn sư. Hàng thứ tư là tượng Quan âm nghìn mắt nghìn tay cùng với hai pho tượng Văn Thù - Phổ Hiền cưỡi voi trắng và sư tử xanh. Hàng thứ năm là tượng Thích ca sơ sinh. Hai bên là tượng Phạm Thiên và Đế Thích. Ngoài tiền đường còn có pho tượng Thánh Tăng (bên phải), Đức ông (bên trái) cùng với hai pho tượng Hộ pháp khuyến thiện, trừ ác mà dân gian thường gọi là ông thiện và ông ác. Gian hậu cung còn đặt nhiều ngai bài vị thờ các thần cùng tượng của bà Nguyễn Thị Ngọc Tú, được dân địa phương suy tôn là Vua Bà.

Chùa Nam Dư Thượng là chùa cổ kính, theo bài minh trên quả chuông treo trong chùa cho biết vào năm Bính Ngọ gặp cơn binh hỏa, chùa cùng tượng Phật bị hủy hoại, quả chuông cũ cũng bị phá hủy, đến năm Giáp Dần được đúc lại. Mặc dù đã được nhiều lần sửa chữa và trùng tu, nhưng vị trí của ngôi chùa vẫn ở nguyên chỗ cũ. Vật thờ còn lại trong chùa cũng tương đối phong phú. Tất cả gồm có: 2 bản sắc phong, hơn 30 lượng gỗ các loại, 4 ngai bài vị, 10 câu đối, 16 hoành phi, 1 bia đá có niên đại Vĩnh Tộ thứ 10 (1628) và 1 quả chuông.

Chùa Nam Dư Thượng ngoài thờ Phật còn phối thờ hai vị nữ thần là Lê gia Hoàng thái hậu Trương Thị Miếu và Nguyên soái thống đốc quốc chính Thanh Đô vương Trịnh Tráng vương phi Nguyễn Thị Ngọc Tú. Đây là hai vị nữ thần có công lớn với địa phương được dân làng suy tôn và thờ phụng trong chùa. Hàng năm, vào ngày rằm tháng Giêng, dân làng mở hội tế lễ Thần, Phật và hội khỏe truyền thống đấu vật đánh roi thể hiện tinh thần thượng võ của dân tộc

Nhà thờ xứ đạo công giáo: Vào năm 1904, một số người dân ở Nam Dư Thượng như cụ Lý Thực, cụ Cán Bẩy, cụ Cán Kính, cụ Cán Duyên đứng đầu là cụ Lý Thực (họ Nguyễn) vốn là Tiên chỉ của làng đã đứng ra thành lập xứ họ đạo. Lúc đầu số lượng dân chỉ có khoảng 20 - 30 người trong số hơn chục hộ gia đình. Nhà thờ lúc đầu còn xây đơn sơ lợp bằng lá cọ. Đến năm 1910, mới xây lại thành nhà thờ mới và có cả gác chuông. Bà con giáo dân xứ họ Nam Dư luôn phát huy tinh thần "sống phúc âm trong lòng dân tộc" luôn giữ vững tinh thần đoàn kết Lương, Giáo, nêu cao tinh thần kính Chúa yêu nước, cùng nhau xây dựng xóm làng ấm no hạnh phúc.

Đình Thúy Lĩnh: Đình Thúy Lĩnh thuộc thôn Thúy Lĩnh, nằm bên bờ hữu ngạn sông Hồng. Ngôi đình hiện còn cho đến nay tọa lạc trên một khu đất cao ráo, sáng sủa. Kiến trúc của ngôi đình bao gồm: Tam quan, Tiền trung đình và Hậu cung. Tam quan được xây dựng kiểu trụ. hai trụ giữa to, cao, trên chóp là 4 con phượng đấu nhau tạo thành một hình nhìn xa trông như bông hoa 4 cánh đẹp. Thân cột có khắc đôi câu đối chữ Hán. Tiền đình gồm 5 gian lợp ngói mũi hài, bờ nóc có mặt trời tia lửa, các đầu đao nhọn hình đầu rồng uốn cong. Trung đình nối với tiền đình ở gian giữa. Vì kèo kiến trúc theo kiểu "chồng giường giá chiêng xà nách". Hậu cung nối tiếp trung đình, xây kiểu đầu hồi bít đốc, 3 gian kiểu chồng giường giá chiêng đơn giản. Hiện vật trong đình còn giữ được khá phong phú, gồm một cuốn thần phả, 8 sắc phong, trong đó sắc phong sớm nhất đề niên hiệu năm Cảnh Hưng thứ 43 (1782), một quả chuông đồng đề niên hiệu năm Tự Đức thứ 35 (1882), một số hoành phi, câu đối, cỗ kiệu, các ngai thờ và các đồ thờ bằng sứ...Thần hoàng làng được thờ trong đình Thúy Lĩnh là Đức Linh Lang Đại vương.

Chùa Thúy Lĩnh (Diên Khánh tự): Nằm ở vị trí giữa làng là ngôi chùa Diên Khánh, tên chữ là Diên Khánh tự. Ngôi chùa còn lại khá đẹp. Trong chùa còn chuông và nhiều tượng quí. Bên trong khuôn viên của chùa có một ngôi miếu nhỏ thờ Bạch hổ Đại vương. Trải qua năm tháng mưa, gió bị thiên nhiên phong hóa ngôi miếu đã bị đổ. Ngai thờ và đồ thờ Bạch hổ đã được đưa về thờ ở đình Thúy Lĩnh (xem mục đình Thúy Lĩnh). Đình Thúy Lĩnh cũng được xây dựng liền với chùa nằm ngay ở trung tâm của thôn lạo nên một cụm di tích lịch sử văn hóa có cảnh quan rất đẹp. Cả quần thể đình chùa Thúy Lĩnh đã được Nhà nước xếp hạng di tích lịch sử vào năm 1993.

Miếu Bà: Nằm ở phía Bắc của thôn, miếu có tên là "Tiết liệt linh từ", tục gọi là Miếu Bà, được xây dựng ở chính nơi xưa kia bà Phan Thị Thuấn đã thác theo chồng. Ngôi miếu được làng xây dựng thờ bà Phan Thị Thuấn phu nhân của một võ tướng thời Lê - Trịnh là Ngô Cảnh Hoàn. Ông gốc người Thạch Hà (Hà Tĩnh), được triều đình nhà Lê - Trịnh cử đem binh giao chiến với quân Tây Sơn ở bến Thúy Ái. Trong trận này tướng Ngô Cảnh Hoàn cùng hai con đều tử trận ở gần bến Thúy Ái. Năm đó, Phan Thị Thuấn mới ngoài 20 tuổi, là người đoan trang có nhan sắc, chưa sinh nở lần nào. Bà người làng Đan Nha, huyện Thạch Hà, hiệu là Băng Nữ. Lúc nhỏ có được theo học thi thư nên cũng hiểu biết ít nhiều về các việc chính trị trong nước. Sau khi chồng chết, Thị Thuấn thu xếp hành lý tư trang từ quê ra chùa Kiến Sơ ở xã Phù Đồng, huyện Gia Lâm (Hà Nội) - nơi vợ cả của Cảnh Hoàn tu hành, làm lễ cầu siêu cho chồng. Sau khi làm lễ 100 ngày, Thị Thuấn về bến Thúy Ái làm lễ đàn chay và khấn gia tiên. Khi khấn xong bà ăn mặc rất lộng lẫy bước xuống thuyền, rồi quay lại bảo với những người trong họ: "Việc nghĩa của thiếp đã xong, xin cho phép thiếp chết theo tướng quân, hài cốt tướng quân không được mai táng, xin các ông hiểu thấu lòng thiếp, đừng mai táng cho thiếp làm gì". Rồi sai người chèo thuyền đến chỗ Cảnh Hoàn chết, gieo mình xuống tự vẫn. Sau, các con của Cảnh Hoàn đem hài cốt bà về an táng ở quê nhà. Khoảng năm Chiêu Thống (1787- 1788), truy tặng cho bà là " Tiết liệt phu nhân", hạ lệnh cho dân sở tại (thôn Thúy Ái) lập đền thờ. Vào niên hiệu vua Tự Đức thứ 12 (1859), vâng sắc lệnh ban cho mỹ tự "Lê triều tiết liệt phu nhân Phan Thị chi từ" (Đền thờ người đàn bà Tiết liệt họ Phan triều Lê), khắc vào bia đá để lưu truyền mãi mãi. Hiện nay trong ngôi đền thờ bà vẫn còn tấm bia đá với dòng lạc khoản dựng năm Tự Đức thứ 12 (1859) và dòng mỹ tự "Lê triều tiết liệt phu nhân Phan Thị Thuấn chi từ".

Đình Trung Lập: Đình Trung Lập hiện ở tại thôn Trung Lập, ngôi đình được tọa lạc trên một khu đất cao rộng ở giữa làng. Trước đình là một hồ nước rộng, bên cạnh có một chiếc giếng tròn điểm thêm là những bồn hoa được trồng xung quanh tạo nên cảnh đẹp cùng không khí yên lành. Cổng đình được tôn nghiêm thêm bằng những cây cổ thụ cổ kính tỏa bóng mát. Toàn bộ kiến trúc ngôi đình gồm: Tam quan tảo mạc đại đình và hậu cung. Ngôi đình được làm theo kiểu chữ đinh (hay còn được gọi là chuôi vồ) gồm có đại đình và hậu cung. Xưa kia đình Trung Lập có qui mô bề thế được tạo dựng bằng chất liệu gỗ. Do thời gian cùng sự hủy hoại của thiên nhiên, ngôi đình cũ đã bị hỏng. Ngôi đình hiện nay mới được tạo dựng lại. Hiện nay chưa có tư liệu để xác định niên đại ngôi đình cũ, nhưng qua những dấu vết còn lại và đặc biệt qua ngọc phả cho biết: Vào thế kỷ XV thời kỳ thịnh trị của vua Lê Thánh Tông (1460- 1497), sau khi dẹp yên nạn xâm lăng ở phương Nam, Thánh Tông bắt sống Trà Toàn vua nước Chiêm cùng công chúa Chiêm Thành đã cho phép dựng một ngôi miếu nhỏ để hương khói tại Trung Lập. Vào khoảng thế kỷ XVII-XVIII, ngôi đình Trung Lập được ra đời. Một số hiện vật hiện còn mang phong cách nghệ thuật điêu khắc thế kỷ XVIII-XIX phần nào chứng minh được điều đó như: Hai bộ bát tiên bằng gỗ sơn son thiếp vàng với nghệ thuật chạm thủng kết hợp chạm dựng tạo nên một tác phẩm nghệ thuật dân gian tiêu biểu cho nghệ thuật điêu khắc truyền thống nước ta. Đặc biệt, trong đình còn đôi phỗng đá lạc theo kiểu hình tù binh người Chiêm, tạc theo tư thế quì, bụng phệ, hai tay khoanh trước ngực, đã giúp thêm cho việc xác định niên đại sớm của ngôi đình. Tiếp theo nhà đại đình kéo đài về phía sau tạo thành hình chuôi vồ là hậu cung được xây dựng theo kiểu vòm cuốn. Trên cùng ở vị trí trang trọng nhất đặt long ngai bài vị của thành hoàng làng là Nhã Cát Đại vương và Nguyệt Nga công chúa. Ngoài ra còn ngai thờ thổ thần và hai bài vị của Nguyệt Thái và Nguyệt Nga công chúa. Theo bản ngọc phả chữ Hán hiện còn cho biết đình Trung Lập thờ vị thần Thành hoàng là Nhã Cát Đại vương cùng vợ là Nguyệt Nga công chúa.

Vào những năm trước và sau Cách mạng Tháng Tám, ngôi đình Trung Lập có độ tuổi mấy trăm năm ấy lại là chứng nhân của lịch sử, là nơi hội họp của những cán bộ cách mạng, là nơi phát ra lệnh khởi nghĩa giành chính quyền của vùng Lĩnh Nam - Vĩnh Tuy. Thời kỳ kháng chiến chống Pháp, đình Trung Lập cũng được chọn là một trong những nơi các đơn vị bộ đội tập kết để tiến công cảng Hà Nội và bốt giặc ở Vĩnh Tuy.

Chùa Trung Lập( Chùa Cổ Linh): Chùa Trung Lập đặt ở thôn Trung Lập có tên chữ là Cổ Linh tự. Ngôi chùa hiện toạ lạc trên một gò đất cao ở giữa làng sát bên cạnh đình Trung Lập tạo thành một cụm di tích hoàn chỉnh theo kiểu "Tiền Thần hậu Phật". Chùa được xây theo hướng Tây Nam . Chùa chính gồm 5 gian lợp ngói ta, chính giữa bờ nóc đắp hình mặt trời có các tia lửa. Phía ngoài cùng là hai cột trụ hình vuông, trên có đắp nổi tứ linh (long, ly, quy phượng) cùng cánh sen và hổ phù. Ở thân trụ có câu đối chữ Hán. Kết cấu kiến trúc của chùa có nhà Tiền đường, nhà Thiên hương, Thượng điện. Chùa Cổ Linh là chùa còn giữ lại được số lượng tượng khá phong phú gồm 52 pho, gồm có tượng Phật, Pháp tăng được bố trí ở Tiền đường, Thượng điện, nhà Tổ, nhà Mẫu. Mặc dù ra đời ở những thời điểm khác nhau, nhưng những pho tượng ở chùa Cổ Linh đều mang phong cách nghệ thuật dân gian truyền thống của thế kỷ XVIII-XIX. Những hiện vật còn lưu giữ lại trong chùa cũng còn khá nhiều. Tất cả gồm có: 19 bức đại tự sơn son thiếp vàng, 12 câu đối chữ Hán ca ngợi cảnh đẹp của chùa và ca ngợi lòng từ bi, bác ái của đạo Phật. Đặc biệt, trong chùa còn giữ lại được 3 tấm bia đá được làm ở 3 thời điểm khác nhau của triều Nguyễn. Tấm bia có niên đại sớm nhất vào năm Thiệu Trị thứ 2 (1842) với tiêu đề "Thạch bi ký" (Bài ký trên bia kỷ niệm). Thông qua 3 tấm bia này, chí ít ta cũng tìm thấy được sự thay đổi địa danh của vùng Lĩnh Nam và Vĩnh Tuy. Như tấm bia lập vào năm Thiệu Trị thứ 2 (1842), cho chúng ta biết khi đó, có Sở Vĩnh Tuy thuộc huyện Thanh Trì, phủ Thường Tín, đến năm Bảo Đại thứ 10 (1935) thì đã có thôn Trung Lập thuộc xã Vĩnh Tuy, tổng Hoàng Mai, huyện Hàm Long.

Ngoài hệ thống các di tích đình, chùa, Lĩnh Nam còn lưu giữ nhiều lễ hội truyền thống. Lễ hội truyền thống ở Lĩnh Nam thể hiện rõ đặc trưng của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước.

Lễ hội rước nước (Nay còn gọi là lễ cấp thủy hàng năm) Lĩnh Nam nằm trong tam giác châu của đồng bằng sông Hồng, dân cư sinh sống chủ yếu bằng nghề trồng lúa và trồng dâu nuôi tằm. Trong các sách cổ đã từng ghi chép về cách trồng lúa nước ở Việt Nam : xưa, khi Giao Chỉ chưa có quận, huyện, ruộng đất có lạc điền, ruộng ấy theo nước triều lên xuống, dân khẩn ruộng ấy mà ăn... Phương pháp "dẫn thủy nhập điền" để canh tác đã trở thành cách làm truyền thống cho các vùng quê Bắc Bộ. Các lễ hội của làng quê Việt Nam ít nhiều đều có gắn liền với nghề nông cổ truyền. Tái hiện sinh hoạt nghề nông chính là thể hiện hy vọng về những mùa bội thu của người nông dân một nắng hai sương. Người nông dân qua bao đời đã tổng kết kinh nghiệm canh tác của mình bằng câu thành ngữ "Nước, phân, cần, giống". Yếu tố "nước" là quan trọng nhất mang tính quyết định cho nghề nông. Chính vì vậy lễ hội đầu năm của các làng quê Bắc Bộ phần lớn đều có tiến hành nghi lễ cầu nước hay rước nước. Đây là một hành động thiêng liêng biểu trưng cho hy vọng cầu mong được nước là những cơn mưa đúng thời vụ - những cơn mưa vàng mưa bạc cho người nông dân.

Xưa kia vào những ngày tháng 2 âm lịch, ba thôn Thúy Lĩnh, Nam Dư Thượng, Nam Dư Hạ đều tổ chức rước nước. Mỗi một thôn đều tổ chức rước nước riêng (hay là lễ cấp thủy): thôn Nam Dư Thượng vào ngày 13, thôn Nam Dư Hạ vào ngày 14, thôn ThúyLĩnh vào ngày 15. Đến ngày 16 tháng 2 âm lịch, dân ba thôn họp mặt ăn tiệc ở trong thôn đến lượt đăng cai. Song nhiều năm trở lại đây, dân các thôn đã thống nhất tiến hành mở hội lễ rước nước vào cùng một ngày 14 tháng 2 âm lịch hàng năm. Điều này thể hiện được mỹ tục kết chạ "Tam dân giao hảo" của ba thôn, mặt khác cũng nói rõ hơn tinh thần đoàn kết nhất trí của dân làng trong giai đoạn mới.

Từ những ngày trước rằm tháng hai, dân làng Lĩnh Nam đã chuẩn bị đầy đủ cho lễ rước nước. Sáng sớm ngày 14 các cụ ông, cụ bà của các thôn ăn mặc tề chỉnh tập trung tại đình của từng thôn. Sau khi đã làm lễ cáo Thần hoàng, mọi người hồ hởi cùng nhau ra bờ sông Hồng. Trên bến cạnh sông Hồng đã sẵn có thuyền chở kiệu long đình, kiệu rước, lễ vật cùng nhiều cụ ông, cụ bà của ba thôn Thúy Lĩnh, Nam Dư Thượng, Nam Dư Hạ chuẩn bị sang sông. Đoàn rước theo thuyền lên tới đình Bát Tràng làm lễ (theo sự phân công mỗi năm một thôn sửa sang lễ vật sang đình Bát Tràng). Xong xuôi, toàn thể đoàn rước lễ lại lên thuyền. Đến giữa sông Hồng, một cụ già cao niên đã được lựa chọn cân nhắc kỹ càng (có đầy đủ những tiêu chuẩn cần thiết về tuổi tác, đạo đức, kinh tế cũng như sức khỏe) của các thôn dùng gáo đồng múc từng gáo nước đổ vào chiếc bình được đặt ở giữa thuyền. Trên miệng chiếc bình sứ cổ được bịt bằng một vuông vải điều đẹp đẽ. Giữa vùng sông nước mênh mang. tiếng đàn nhạc véo von của dàn bát âm nổi lên, hình ảnh cụ già trang trọng rót từng gáo nước múc từ dưới sông lên tạo cho mọi người một cảm giác yên bình, tin tưởng một vụ mùa bội thu.

Hai làng Nam Dư Thượng, Nam Dư Hạ ở trong đê mỗi năm rước kiệu ra sông Hồng lấy nước, đều phải đi qua đình làng Thúy Lĩnh. Khi qua cửa đình, đoàn rước nước dừng lại, tiến hành lễ vọng. Cùng lúc đó dân làng Thúy Lĩnh ăn mặc đẹp đẽ, có khi đặt hương án trên đường làng làm lễ phụng nghênh đoàn rước đi qua. Mấy năm gần đây, xã Lĩnh Nam lại có thêm xóm Vạn Chài, những ngư dân nơi đây cũng tích cực tham gia vào lễ hội rước nước của xã. Là những người thông thạo vùng sông nước, dân xóm Vạn Chài thường đảm nhiệm việc chèo thuyền, chuyển rước, rước nước cùng dân làng. Dân thôn Trung Lập cũng tổ chức lễ rước nước hàng năm, song tục lệ từ xưa vào ngày mồng một, mồng hai tháng 2 âm lịch, toàn dân thôn Trung Lập tập trung từ sáng sớm tiến hành rước nước cùng với các dân thôn của làng Vĩnh Tuy. Cách thức tổ chức cũng tương tự như của Nam Dư Thượng, Nam Dư Hạ và Thúy Lĩnh.

Lễ hội cướp cầu ở Thúy Lĩnh: Đình Thúy Lĩnh thờ Linh Lang Đại vương, người có công lớn trong cuộc "phá Tống, bình Chiêm", sau khi mất được 269 làng thờ. Hàng năm để tưởng nhớ tới công lao của Đức Linh Lang, dân làng Thúy Lĩnh đã tổ chức lễ hội cướp cầu tại đình làng. Xưa kia lễ hội thường được tổ chức vào các ngày mồng 6, mồng 7, mồng 8 tháng Giêng. Mấy năm trở lại đây, lễ hội vật cầu được thống nhất tổ chức vào các ngày 4, 5, 6 tháng Giêng. Nguồn gốc lễ hội vật cầu là do sự tích được lưu truyền từ đời Lý. Linh Lang Đại vương cùng với Bạch Hổ tướng quân luyện tập binh lính đánh giặc, thường xuyên đưa ra nhiều hình thức thể thao khác nhau để rèn luyện. Trong đó, môn vật cầu được nhiều binh sĩ ưa thích. Vì môn thể thao này không những chỉ rèn luyện thân thể cho binh lính có sức khỏe mà còn tạo cho người lính có ý thức chiến thuật, thủ pháp và tinh thần đồng đội. Hình thức luyện tập này đã tạo nên sự đam mê phấn khởi, tạo ý chí quyết tâm cho người lính, từ đó hình thành tính cách nhanh nhẹn với một cơ thể khoẻ mạnh để khi ra trận có thể thích ứng với mọi điều kiện, hoàn cảnh của chiến trường. Vật cầu - một hình thức luyện quân đời Lý đã trở thành Hội khoẻ truyền thống của Thúy Lĩnh với tinh thần: "Trai thì mạnh, gái thì mềm".


[1] Quốc sử quán triều Nguyễn: "Đại Nam nhất thống chí", tập III, bản dịch NXB KHXH, 1971, tr, 157.

[2] Nguyễn Trãi: "Dư địa chí" - Phan Huy Tiếp dịch, Hà Văn Tấn hiệu đính và chú thích NXB Sử học, 1960, tr 96.

[3] "Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ XIX. Dương Thị The-Phạm Thị Thoa dịch và biên soạn,1981,tr 47.

[4] Ngô Vi Liễn: "Tên làng xã và địa dư các tỉnh Bắc Kỳ", bản dịch NXB Văn hóa-thông tin, Hà Nội 1999, tr 49

[5] Trước khi sáp nhập vào xã Lĩnh Nam , thôn Trung Lập thuộc xã Vĩnh Tuy.

[6] Bùi Thiết: "Sự hình thành và diễn biến của các tên làng người Việt cho đến năm 1945" Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 1 - 2 /1987.

[7] Bùi Thiết: "Sự hình thành và diễn biến của các tên làng người Việt cho đến năm 1945", Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 1 - 2 /1987, tr.1.

[8] Ngọc phả đình làng Trung Lập, phường Lĩnh Nam .

[9] Theo "Vũ Văn tộc phả sơ yếu của dòng họ Vũ, tại Lĩnh Nam , Hoàng Mai, Hà Nội. Tộc phả nguyên bằng chữ Hán được ông Vũ Văn Hàn sao dịch ra chữ Quốc ngữ năm Quý Mão (1963).

[10] Gia phả chi thứ tư thuộc tộc Đại Nguyễn xã Lĩnh Nam , huyện Thanh Trì, Hà Nội.

Tin đọc nhiều

Từ ngày 01/7/2025, học sinh, sinh viên được hỗ trợ tối thiểu 50% mức đóng BHYT

15 phút trước

Theo Nghị định số 188/2025/NĐ-CP của Chính phủ, từ ngày 01/7/2025, học sinh, sinh viên trên toàn quốc sẽ được ngân sách nhà nước hỗ trợ tối thiểu 50% mức đóng BHYT.

Phường Lĩnh Nam quyết tâm tạo đột phá trong chuyển đổi số với chiến dịch “45 ngày đêm”

15:51 07/08/2025

Sáng 7-8, phường Lĩnh Nam (Hà Nội) đã phát động chiến dịch “45 ngày đêm ra quân hỗ trợ hoạt động chuyển đổi số trong giai đoạn đầu vận hành mô hình chính quyền địa phương hai cấp”; trao tặng thiết bị cho các tổ chuyển đổi số cộng đồng.

Tin cùng chuyên mục
Xem theo ngày
Xem
Phường Lĩnh Nam - Diện mạo mới, tâm thế mới!
Phường Lĩnh Nam - Diện mạo mới, tâm thế mới!
.
09:22 25/06/2025
Nét đẹp văn hóa phi vật thể lễ hội vật cầu phường Lĩnh Nam, quận Hoàng Mai, Hà Nội
Nét đẹp văn hóa phi vật thể lễ hội vật cầu phường Lĩnh Nam, quận Hoàng Mai, Hà Nội
Nét đẹp văn hóa phi vật thể lễ hội vật cầu phường Lĩnh Nam, quận Hoàng Mai, Hà Nội
15:50 12/05/2025
Nét đẹp tâm linh và mối quan hệ mang tính truyền thống văn hóa trong Lễ hội cấp thủy 3 dân phường Lĩnh Nam - Trần Phú
Nét đẹp tâm linh và mối quan hệ mang tính truyền thống văn hóa trong Lễ hội cấp thủy 3 dân phường Lĩnh Nam - Trần Phú
Nét đẹp tâm linh và mối quan hệ mang tính truyền thống văn hóa trong Lễ hội cấp thủy 3 dân phường Lĩnh Nam - Trần Phú
15:39 12/05/2025
Nhân dân Lĩnh Nam trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1946-1954)
Nhân dân Lĩnh Nam trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1946-1954)
Chưa hưởng trọn niềm vui độc lập, nhân dân Lĩnh Nam đã phải đứng lên sát cánh cùng nhân dân cả nước bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược.
10:53 18/09/2020
Những trang sử truyền thống từ buổi đầu đến cách mạng tháng Tám năm 1945
Những trang sử truyền thống từ buổi đầu đến cách mạng tháng Tám năm 1945
Lĩnh Nam - vùng đất cổ nằm án ngữ đường thủy phía Nam kinh thành Thăng Long - nơi có dòng sông Hồng rất thuận tiện cho các thế trận thủy chiến khi giao tranh với quân thù. Ngay từ khi nhà Lý định đô ở Thăng Long, vùng đất phía Nam sông Hồng càng trở nên một địa thế quan trọng. Vì nó vừa có khả năng làm căn cứ hậu cần cho kinh thành, vừa đóng vai trò yểm trợ cho quân dân rút lui về phía nam khi cần thiết; đồng thời là nơi phục kích tiêu diệt quân địch ở yết hầu phía Nam kinh thành.
10:52 18/09/2020
Tin khác
Từ ngày 01/7/2025, học sinh, sinh viên

được hỗ trợ tối thiểu 50% mức đóng BHYT
Từ ngày 01/7/2025, học sinh, sinh viên được hỗ trợ tối thiểu 50% mức đóng BHYT
Theo Nghị định số 188/2025/NĐ-CP của Chính phủ, từ ngày 01/7/2025, học sinh, sinh viên trên toàn quốc sẽ được ngân sách nhà nước hỗ trợ tối thiểu 50% mức đóng BHYT.
15 phút trước
Phường Lĩnh Nam quyết tâm tạo đột phá trong chuyển đổi số với chiến dịch “45 ngày đêm”
Phường Lĩnh Nam quyết tâm tạo đột phá trong chuyển đổi số với chiến dịch “45 ngày đêm”
Sáng 7-8, phường Lĩnh Nam (Hà Nội) đã phát động chiến dịch “45 ngày đêm ra quân hỗ trợ hoạt động chuyển đổi số trong giai đoạn đầu vận hành mô hình chính quyền địa phương hai cấp”; trao tặng thiết bị cho các tổ chuyển đổi số cộng đồng.
15:51 07/08/2025
Quyết định về việc phê duyệt quy trình nội bộ giải quyết thủ tục hành chính lĩnh vực Người có công thuộc thẩm quyền giải quyết của UBND cấp xã trên địa bàn thành phố Hà Nội
Quyết định về việc phê duyệt quy trình nội bộ giải quyết thủ tục hành chính lĩnh vực Người có công thuộc thẩm quyền giải quyết của UBND cấp xã trên địa bàn thành phố Hà Nội
...
15:38 07/08/2025
Thông báo lịch tiếp công dân định kỳ của Lãnh đạo UBND phường Lĩnh Nam tháng 8 năm 2025
Thông báo lịch tiếp công dân định kỳ của Lãnh đạo UBND phường Lĩnh Nam tháng 8 năm 2025
...
14:22 07/08/2025
Quy trình nội bộ, quy trình điện tử giải quyết thủ tục hành chính lĩnh vực văn hoá, thể thao thuộc phạm vi chức năng quản lý của sở Văn hoá và Thể thao thành phố Hà Nội
Quy trình nội bộ, quy trình điện tử giải quyết thủ tục hành chính lĩnh vực văn hoá, thể thao thuộc phạm vi chức năng quản lý của sở Văn hoá và Thể thao thành phố Hà Nội
...
14:13 06/08/2025
Xây dựng phường Lĩnh Nam phát triển hài hòa, bền vững
Xây dựng phường Lĩnh Nam phát triển hài hòa, bền vững
Hôm nay (4-8), Đại hội đại biểu Đảng bộ phường Lĩnh Nam lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030, diễn ra phiên chính thức.
09:00 06/08/2025
Phường Lĩnh Nam xây dựng môi trường đầu tư hấp dẫn thu hút các doanh nghiệp
Phường Lĩnh Nam xây dựng môi trường đầu tư hấp dẫn thu hút các doanh nghiệp
Kinhtedothi - Ngày 4/8/2025, Đảng bộ phường Lĩnh Nam tổ chức Đại hội đại biểu lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030. Ủy viên Ban Thường vụ Thành ủy, Phó Chủ tịch Thường trực HĐND TP Hà Nội Phùng Thị Hồng Hà đã đến dự là phát biểu chỉ đạo.
17:52 04/08/2025
Phát triển vùng bãi sông Hồng - Lĩnh Nam thành điểm nhấn của Thủ đô Hà Nội
Phát triển vùng bãi sông Hồng - Lĩnh Nam thành điểm nhấn của Thủ đô Hà Nội
Ngày 4/8, Đảng bộ phường Lĩnh Nam tổ chức Đại hội đại biểu lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030. Với phương châm “Đoàn kết - Dân chủ - Kỷ cương - Đột phá - Phát triển”, Đảng bộ phường thống nhất đề ra 6 nhiệm vụ trọng tâm và 3 khâu đột phá, hướng đến mục tiêu xây dựng địa phương phát triển đồng bộ, văn minh, kinh tế phát triển nhanh, hài hòa và bền vững, đời sống vật chất, văn hóa và tinh thần của nhân dân được nâng cao.
17:46 04/08/2025
Phường Lĩnh Nam rực rỡ cờ hoa, sẵn sàng cho kỳ đại hội lịch sử
Phường Lĩnh Nam rực rỡ cờ hoa, sẵn sàng cho kỳ đại hội lịch sử
Không khí tại phường Lĩnh Nam, thành phố Hà Nội, đang tràn ngập sắc màu cờ hoa, băng rôn và khẩu hiệu, chuẩn bị cho Đại hội Đảng bộ phường lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030.
12:48 03/08/2025
Phường Lĩnh Nam: Chung tay giữ gìn môi trường, xây dựng nếp sống văn minh, hiện đại.
Phường Lĩnh Nam: Chung tay giữ gìn môi trường, xây dựng nếp sống văn minh, hiện đại.
Sáng 2/8, Đảng ủy, HĐND, UBND, Ủy ban MTTQ phường Lĩnh Nam tổ chức Lễ ra quân “Chung tay hành động xây dựng phường Lĩnh Nam Sáng - Xanh - Sạch - Đẹp”.
10:55 02/08/2025