Những tháng cuối năm 1946, không khí ở Thủ đô Hà Nội vô cùng căng thẳng ngột ngạt. Với âm mưu tái chiếm nước ta một lần nữa, thực dân Pháp liên tục gây nên những cuộc khiêu khích xung đột lớn tại Hà Nội và một số thành phố khác. Sự nhân nhượng của quân và dân ta đã vượt quá giới hạn. Toàn thể dân tộc Việt Nam buộc phải cầm súng tự bảo vệ mình, bảo vệ những thành quả cách mạng vừa mới giành được.
Hưởng ứng Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Trung ương Đảng và Hồ Chủ tịch, đúng 20 giờ ngày 19-12-1946, công nhân Nhà máy điện Yên Phụ phá máy. Ba phút sau, đèn điện toàn thành phố vụt tắt. Tín hiệu đã được phát ra, lập tức những quả pháo đầu tiên từ pháo đài Láng dội vào thành Hà Nội phát lệnh tiến công. Cùng lúc, đại bác ở các pháo đài Xuân Canh, Xuân Tảo liên tiếp nhả đạn vào các mục tiêu đã định sẵn. Tiếng đại bác rền vang bầu trời Thủ đô, báo hiệu cuộc kháng chiến toàn quốc đã bùng nổ. Tại các cửa ô và các làng ngoại thành, khi tiếng súng kháng chiến vừa phát nổ, các tổ chức quần chúng nhanh chóng tập hợp thành đội ngũ trùng điệp, chuẩn bị vũ khí lương thực sẵn sàng phối hợp cùng các lực lượng vũ trang chiến đấu.
Ngay hôm sau, ngày 20-12-1946, Uỷ ban hành chính kháng chiến thôn Nam Dư Thượng được thành lập, ông Nguyễn Văn Nghiễm được bầu làm Chủ tịch. Dưới sự lãnh đạo của UBHC kháng chiến, các đơn vị tự vệ Nam Dư Thượng bắt đầu triển khai đội hình sẵn sàng chiến đấu. Nhiều tổ chức quần chúng như: Phụ nữ cứu quốc, Thanh niên cứu quốc, Thiếu nhi cứu quốc cũng được động viên, tích cực tham gia công tác phục vụ chiến đấu cứu thương, tiếp vận, chăm lo đời sống cho các chiến sĩ Vệ quốc đoàn và anh em tự vệ xã nhà. Có thể nói tinh thần chuẩn bị kháng chiến ở Lĩnh Nam lúc này rất khẩn trương trong không khí sục sôi căm thù.
Tại thôn Thúy Lĩnh, cơ cấu của bộ máy lãnh đạo chính quyền trong những ngày đầu kháng chiến gồm có các ông: Nguyễn Thiện Tài làm Chủ tịch; Vũ Văn Khắc làm Chủ nhiệm Việt Minh; Nguyễn Văn Lưu phụ trách dân quân tự vệ; Lê Văn Cấu làm Bí thư Thanh niên. Thôn Trung Lập (lúc này trực thuộc Uỷ ban hành chính kháng chiến Vĩnh Tuy) do ông Dương Văn Thanh làm Ủy nhiệm thôn.
Những trận đòn phủ đầu của quân và dân ta đã đưa thực dân Pháp lâm vào tình thế đối phó bị động. Nhưng sau đó, chúng bắt đầu củng cố lại tinh thần. Với ưu thế hơn hẳn về lực lượng, trang bị vũ khí. Từ ngày 20-12-1946, Pháp tập trung lực lượng quân cơ động có xe tăng bọc thép, pháo binh yểm trợ chia làm 4 cánh tấn công các vị trí của ta trong thành phố và đánh nống ra vùng ngoại thành.
Ở vùng ngoại ô phía Nam Hà Nội, địa bàn Vĩnh Tuy là một trong 25 vị trí chốt giữ quan trọng của Liên khu 2. Tại đây, lực lượng tự vệ các địa phương đã phối hợp chặt chẽ với quân chủ lực của Tiểu đoàn 77 và 212 tổ chức đánh địch ngay từ những trận đầu. Các đội tự vệ của Lĩnh Nam ngày đêm thay nhau lên canh gác, chốt giữ Vĩnh Tuy, đoạn từ dốc Vĩnh Tuy lên đến dốc Lương Yên, hiệp đồng tác chiến với bộ đội chủ lực Thủ đô kiên quyết giam chân quân Pháp không cho chúng mở rộng phạm vi chiếm đóng ra địa bàn ngoại thành. Nhiều trận đánh ác liệt đã diễn ra xung quanh khu vực này. Tuyến giao thông trọng yếu nối liền nội thành với ngoại thành theo hướng này được giữ vững.
Ngày 27-12- 1946, quân Pháp bắt đầu tràn đến Lĩnh Nam . Nhiệm vụ đặt ra cho nhân dân Lĩnh Nam lúc này thật cấp bách. Dưới sự lãnh đạo của Uỷ ban hành chính kháng chiến Nam Dư Thượng và Thúy Lĩnh, các đội dân quân tự vệ cùng các tổ chức quần chúng được huy động tối đa sức mạnh. Lực lượng cốt cán của phong trào đảm nhận trách nhiệm bám đất, bám làng tổ chức đánh địch cầm chân quân Pháp, ngăn chặn sự phá hoại tàn sát của chúng. Số còn lại tập trung giúp đỡ và bảo vệ đồng bào phân tán, cất giấu tài sản hoặc tạm thời tản cư sang các xã bạn, nơi mà địch chưa đánh tới. Do công tác chuẩn bị chu đáo, với tinh thần sẵn sàng đối phó với mọi tình huống, các đơn vị tự vệ Lĩnh Nam đã thực hiện tốt nhiệm vụ chiến đấu cản bước tiến của giặc, làm tiêu hao sinh lực địch cũng như bảo vệ an toàn tính mạng, tài sản của nhân dân.
Thắng lợi trên đây của quân dân Lĩnh Nam có ý nghĩa vô cùng to lớn, thể hiện sự đoàn kết nhất trí cao trong các tầng lớp nhân dân Lĩnh Nam dưới sự lãnh đạo của Uỷ ban hành chính kháng chiến xã cũng như sự tin tưởng tuyệt đối vào đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Qua những tháng ngày chiến đấu, tinh thần kháng chiến kiến quốc của nhân dân Lĩnh Nam được củng cố và nâng cao lên một bước, trở thành sức mạnh vô cùng to lớn, giúp nhân dân Lĩnh Nam vượt qua những thử thách cam go trong cuộc đọ sức sắp tới với thực dân Pháp.
Hưởng ứng lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch: "Mỗi công dân phải là một chiến sĩ, mỗi làng xóm phải là một chiến hào", Uỷ ban hành chính kháng chiến Lĩnh Nam tổ chức tuyên truyền, giáo dục và động viên rộng rãi các tầng lớp nhân dân, các tổ chức quần chúng từ nam, phụ, lão, ấu mang hết sức mình đóng góp vào công cuộc kháng chiến, kiến quốc, quyết tâm xây dựng Lĩnh Nam thành một làng chiến đấu, một pháo đài thép. Nhiều quần chúng tích cực đã được bồi dưỡng nâng cao trình độ giác ngộ và khả năng hành động cách mạng. Các đơn vị tự vệ dân quân được tổ chức phiên chế theo từng thôn xóm và được huấn luyện khá cơ bản. Có thể nói công tác xây dựng lực lượng vũ trang địa phương có chất lượng chiến đấu cao ở Lĩnh Nam được chính quyền xã và tổ chức quân sự cấp trên coi trọng. Các đội dân quân tự vệ được giao nhiệm vụ đảm bảo trật tự an ninh xóm làng, sẵn sàng đánh địch khi chúng xâm phạm địa bàn, hoặc hỗ trợ cho các địa phương khác trong khu vực, nhưng vẫn không thoát ly lao động sản xuất, kết hợp chặt chẽ nhiệm vụ kháng chiến với kiến quốc.
Đầu năm 1947, tình hình chiến sự trên địa bàn Hà Nội diễn ra khá căng thẳng và quyết liệt. Ở mặt trận Vĩnh Tuy - Thanh Trì - Lĩnh Nam , quân ta liên tục phải đối phó với những cuộc càn quét, bắn phá của giặc Pháp. Đồng thời ta chủ động tổ chức nhiều trận tập kích, phục kích gây cho chúng những thiệt hại đáng kể. Trận đánh tiêu biểu nhất và cũng là chiến công vang dội đầu tiên mà quân dân Lĩnh Nam giành được diễn ra đêm 27 tháng Chạp năm Bính Tuất, tức ngày 18-1-1947. Thực hiện kế hoạch của Bộ chỉ huy mặt trận khu XI, ngày 15- 1-1947, Tiểu đoàn 212 của Liên khu 2 được lệnh chuyển 2 khẩu pháo từ Thổ Khối sang chi viện cho mặt trận Vĩnh Tuy, tập kích các vị trí địch trong nội thành. Trong đó có 1 khẩu được đưa về vị trí an toàn tại Nghè Thúy Lĩnh cùng một đại đội chủ lực chiến đấu của Tiểu đoàn 212. Quân Pháp biết được vị trí tập kết của ta nên đêm ngày 18-1-1947, chúng bố trí lực lượng theo hai đường thủy bộ kéo vào định bất ngờ đánh úp Nam Dư Thượng và Nam Dư Hạ. Trên đường thấy chúng dùng ca nô chuyển quân theo sông Hồng vào bãi Thanh Trì rồi tràn đến Lĩnh Nam . Từ Vĩnh Tuy, cánh quân bộ có xe tăng yểm trợ và Moóc-chi-ê ở Đồn Thuỷ bắn dọn đường tiến vào Nghè Cả của Nam Dư Thượng. Nhờ tinh thần cảnh giác cao chuẩn bị kỹ càng, quân dân ta đã kịp thời nổ súng đón đánh địch. Quân Pháp không kịp trở tay đối phó, đội hình địch nhanh chóng bị cắt dời. Tại Nam Dư Thượng, một trung đội tự vệ Hoàng Diệu phối hợp với các trung đội tự vệ địa phương tổ chức chiến đấu rất quyết liệt. Ven bờ sông Hồng, một ca nô địch bị bắn chìm. Kết thúc trận đánh, 1 trung đội địch bị tiêu diệt, 1 xe tăng của chúng bị pháo 37 ly của ta hạ thấp nòng bắn tan xác ngay trên đê Thanh Trì. Quân ta bảo toàn phần lớn lực lượng và vũ khí. Hai khẩu pháo được tập kết về nơi quy định an toàn. Trong thắng lợi chung ấy, quân và dân Lĩnh Nam đã đóng góp một phần công sức to lớn rất đáng khích lệ.
Ngày 17-2-1947, Trung đoàn Thủ đô được lệnh rút khỏi Hà Nội, kết thúc thắng lợi 60 ngày đêm chiến đấu gian khổ cầm chân địch trong thành phố, làm phá sản chiến lược "chiến tranh chớp nhoáng" của địch.
Cuối tháng 2-1947, quân Pháp được tăng thêm viện binh và trang bị thêm nhiều phương tiện chiến tranh hiện đại. Dựa vào thế mạnh về quân sự, chúng ra sức củng cố khu vực nội thành và những vùng ngoại thành mới chiếm được. Đầu tháng 3-1947, Pháp liên tiếp mở những cuộc hành binh lớn tấn công ra vùng ngoại vi phía Tây và Nam Hà Nội. Địa bàn từ Vĩnh Tuy, Lĩnh Nam , Khuyến Lương - ThanhTrì xuống đến Yên Duyên trở thành những trọng điểm bắn phá và càn quét thường xuyên của địch. Ý đồ thâm độc của Pháp khi tổ chức những đợt tiến công ra khu vực này là nhằm phong tỏa, khống chế huyết mạch giao thông quan trọng cả đường thủy và đường bộ ở phía Nam Hà Nội, cắt đứt sợi dây liên lạc giữa hậu phương ta với cơ sở kháng chiến nội thành. Trong tình thế đầy khó khăn như vậy, công cuộc kháng chiến của nhân dân ta ở vùng ngoại thành càng trở nên khẩn trương. Nhằm đối phó với những hoạt động của địch, ngay từ tháng 3-1947, Đảng ủy và Uỷ ban kháng chiến khu XI quyết định chấn chỉnh lại tổ chức, sắp xếp bộ máy lãnh đạo và chỉ huy, đồng thời tăng cường củng cố lực lượng vũ trang ở khu vực ngoại thành. Hai khu Đề Thám và Mê Linh được hợp nhất thành Quận VI do đồng chí Nguyễn Tiến Đức làm Bí thư quận ủy, đồng chí Dương Ngà giữ chức Chủ tịch Uỷ ban kháng chiến và đồng chí Lâm Văn Son giữ chức Quận đội trưởng. Phong trào kháng chiến kiến quốc của nhân dân Lĩnh Nam đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Uỷ ban hành chính kháng chiến xã bên cạnh sự hỗ trợ đắc lực của lực lượng vũ trang Quận VI. Ở thôn Thúy Lĩnh, tháng 4-1947, chính quyền được củng cố do ông Lê Văn Hào làm Chủ tịch Uỷ ban kháng chiến, ông Nguyễn Ngọc Kim làm Chủ nhiệm Việt Minh, ông Nguyễn Văn Lưu - cán bộ quân sự và ông Vũ Văn Khắc làm Trưởng ban tuyên truyền.
Đáp ứng yêu cầu bức thiết của tình hình thực tế, nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với phong trào địa phương, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Quận ủy quận VI, cuối năm 1947, Chi bộ Nam Thúy được thành lập (Thúy Lĩnh và Nam Dư Hạ). Chi bộ gồm 7 đảng viên do đồng chí Đỗ Văn Tăng (người Nam Dư Hạ) làm Bí thư; đồng chí Vũ Văn Khắc: Phó Bí thư; đồng chí Nguyễn Ngọc Kim làm Chủ nhiệm Việt Minh; ông Lê Văn Hào giữ chức Uỷ ban kháng chiến và cán bộ quân sự là ông Nguyễn Văn Lưu. Chi bộ Nam Dư Thượng gồm 3 đồng chí, do đồng chí Nguyễn Văn Thưởng (tức Duy) làm Bí thư; đồng chí Nguyễn Văn Bể (tức Biên) làm Chủ nhiệm Việt Minh xã và đồng chí Lê Thị Vân Tiến phụ trách quân sự. Mặc dù cơ sở đảng còn mỏng, lực lượng đảng viên ít, nhưng đây chính là những hạt nhân nòng cốt từng gắn bó với phong trào ngay từ những ngày đầu của cuộc kháng chiến. Do đó hoạt động của chi bộ đã nhanh chóng đi vào nề nếp. Chi bộ Đảng thực sự khẳng định được uy tín, vai trò của mình trong quá trình lãnh đạo nhân dân Lĩnh Nam đẩy mạnh kháng chiến, chống giặc giữ làng.
Sự ra đời của chi bộ Đảng ở Lĩnh Nam là một bước ngoặt quan trọng đánh dấu sự trưởng thành vượt bậc của phong trào cách mạng Lĩnh Nam . Dưới sự lãnh đạo của Chi bộ Đảng, Uỷ ban hành chính kháng chiến Lĩnh Nam đã cùng với các tổ chức quần chúng nhanh chóng triển khai phương án hoạt động cụ thể thích ứng với điều kiện thực tế của địa phương trên nguyên tắc thực hiện đúng chủ trương, đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện... mà Đảng đề ra.
Nhiệm vụ quan trọng hàng đầu được Chi bộ Đảng và Uỷ ban hành chính kháng chiến Lĩnh Nam xác định là: huy động tối đa lực lượng nòng cốt trực tiếp tham gia chiến đấu, đồng thời ra sức động viên mọi tầng lớp nhân dân trong xã kiên quyết bám đất, bám làng xây dựng lực lượng, bảo vệ cơ sở cách mạng. Khi cần thiết, các đơn vị dân quân tự vệ Lĩnh Nam phải tổ chức và bảo vệ nhân dân triệt để tản cư, thực hiện vườn không nhà trống, tiêu thổ kháng chiến, đồng thời phối hợp chặt chẽ với lực lượng tự vệ các xã trong địa bàn tiến hành tập kích đồn bốt giặc hoặc phục kích ngăn chặn chúng trên tuyến đê từ Vĩnh Tuy-Thanh Trì-Yên Duyên... và trên tuyến đường I Giáp Bát - Văn Điển ...
Với ưu thế hơn hẳn về quân sự, đến tháng 4 -1947, thực dân Pháp đã thiết lập và củng cố được phòng tuyến thứ nhất bảo vệ cho nội thành từ Nhật Tân qua Bưởi, Cầu Giấy, Ngã Tư Vọng, Mai Động, Vĩnh Tuy. Tại những nơi này quân Pháp đã xây dựng đồn bốt và tập trung quân chốt giữ ngày đêm, khống chế các ngả ra vào thành phố, hòng cô lập lực lượng kháng chiến nội thành với bên ngoài. Tuy nhiên, dọc theo hệ thống phòng thủ này, giặc Pháp thường xuyên bị các đơn vị dân quân tự vệ tập kích và quấy phá gây cho chúng nhiều thiệt hại. Địa bàn Lĩnh Nam vẫn do ta làm chủ, nằm ngoài sự o ép của địch. Tuyến giao thông liên lạc giữa nội thành với hậu phương ở phía Nam Hà Nội về cơ bản được bảo toàn.
Quán triệt đường lối kháng chiến của Trung ương Đảng trong Chỉ thị Toàn dân kháng chiến, từ ngày mùng 3 đến 6 - 4 -1947, Hội nghị cán bộ Trung ương lần thứ 2 đã họp và ra Nghị quyết với nội dung chủ yếu là phát triển cuộc chiến tranh du kích sâu rộng trên phạm vi cả nước. Nghị quyết chỉ rõ: "Cương quyết chuyển sang du kích vận động chiến, giành quyền chủ động về chiến thuật, ngay trong giai đoạn phòng ngự này. Chống thói quen đánh trận địa, hay phòng ngự theo lối trận địa, học cách phòng ngự theo lối vận động. Dùng những đội quân du kích thật gan dạ và khôn khéo, quấy nhiễu, du kích đánh tỉa cho địch hao mòn,... cấp tốc xúc tiến việc tổ chức, huấn luyện, và võ trang, lãnh đạo dân quân…"[1].
Nghị quyết Hội nghị cán bộ Trung ương 2 đánh dấu một bước chuyển biến quan trọng trong quá trình chỉ đạo công cuộc kháng chiến kiến quốc của Đảng ta. Hình thái chiến tranh nhân dân đã được hình thành trên mọi vùng, miền trong cả nước. Song song với những hoạt động quân sự, dưới sự lãnh đạo của chi bộ Đảng, đội du kích Nam Dư Thượng tích cực tổ chức và động viên nhân dân tham gia các hình thức sinh hoạt mang ý nghĩa chính trị nhân kỷ niệm những ngày lễ lớn của dân tộc, kỷ niệm ngày sinh của Bác Hồ kính yêu... Trên cơ sở đó củng cố và tăng cường khối đoàn kết toàn dân, tập hợp lực lượng quần chúng xung quanh chi bộ Đảng, quyết tâm kháng chiến, kiến quốc giành thắng lợi.
Từ giữa năm 1947 trở đi, hoạt động quân sự trên địa bàn Quận VI diễn ra rất sôi nổi, đặc biệt là trên địa bàn Lĩnh Nam, Vĩnh Tuy, Thanh Trì. Bốt Vĩnh Tuy thường xuyên bị các đơn vị tự vệ dân quân du kích quấy rối và tập kích. Tháng 9 năm 1947, du kích Nam Dư Thượng tổ chức ném lựu đạn vào đội tuần tiễu của địch ở khu vực Ba Hàng. Tuy lực lượng còn mỏng, trang bị vũ khí thô sơ nhưng với tinh thần gan dạ, dũng cảm, mưu trí, sáng tạo, lực lượng dân quân du kích Lĩnh Nam đã gây cho địch tâm lý hoang mang lo sợ. Chúng không dám tự do đi lại cướp bóc, bắt người. Cơ sở kháng chiến ở Lĩnh Nam vẫn được giữ vững, ý đồ biến Lĩnh Nam thành vùng tề của giặc Pháp bị phá sản.
Tháng 1-1948, Hội nghị Trung ương Đảng mở rộng đã họp và đề ra chủ trương: Biến vùng sau lưng địch thành tiền phương của ta, đẩy mạnh mặt trận kinh tế-văn hóa tiến kịp mặt trận quân sự và chính trị, làm cho cuộc kháng chiến thực sự trở thành toàn dân, toàn diện. Những chủ trương lớn của Đảng được Hội nghị cán bộ toàn thành phố Hà Nội (tháng 3-1948), cụ thể hóa bằng các nhiệm vụ: Kiên quyết làm thất bại kế hoạch lập phòng tuyến bao vây của địch; phát động phong trào du kích chiến tranh ở sau lưng địch để bao vây lại chúng; phát triển dân quân du kích xã rộng khắp; dùng ngoại thành làm bàn đạp để tiến công nội thành, tăng cường cán bộ cho ngoại thành, đưa thêm cán bộ vào nội thành, thống nhất hệ thống giao thông của Đảng.
Xuất phát từ tình hình và nhiệm vụ mới, căn cứ vào điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của một số xã trong cùng địa bàn vốn có quan hệ lịch sử gắn bó lâu đời, tháng 5 -1949, Uỷ ban hành chính kháng chiến Quận VI quyết định sáp nhập ba xã Nam Dư Thượng - Vĩnh Tuy - Thanh Trì thành liên xã Vạn Xuân. Công cuộc kháng chiến kiến quốc ở đây đều đặt dưới sự lãnh đạo thống nhất của Chi bộ Vạn Xuân và Uỷ ban hành chính kháng chiến xã. Chi bộ hợp nhất của Vạn Xuân do đồng chí Mai Văn Thành làm Bí thư; đồng chí Hoàng Văn Bản làm Phó bí thư kiêm chính trị viên và đồng chí Trần Kiên (tức Thái Kiên) giữ chức xã đội trưởng. Uỷ ban hành chính kháng chiến Vạn Xuân cũng được kiện toàn lại gồm các đồng chí Dương Văn Thắng làm Chủ tịch, đồng chí Nguyễn Văn Bể làm Uỷ viên chính quyền xã; đồng chí Dương Hồng Phong phụ trách công tác dân vận và đồng chí Dương Thị Loan phụ trách công tác phụ nữ. Tháng 6-1948, đồng chí Dương Văn Thắng hy sinh, đồng chí Dương Văn Y được cử giữ chức Chủ tịch, đồng chí Nguyễn Văn Đế làm Phó chủ tịch. Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý và chỉ đạo các mặt hoạt động trên từng địa bàn, chi bộ Vạn Xuân được phân thành 3 phân chi: Phân chi Đông (Thanh Trì) do đồng chí Liên (tức Sở) làm Bí thư; Phân chi Tây (Vĩnh Tuy) do đồng chí Khôi (Dương Văn Rõ) làm Bí thư; Phân chi Nam (Nam Dư Thượng) do đồng chí Nguyễn Văn Xưa (tức Triệu) làm Bí thư.
Đội ngũ đảng viên của Vạn Xuân lúc này có 32 đồng chí. Như vậy, đến giữa năm 1948, cơ sở Đảng và bộ máy chính quyền ở Vạn Xuân đã ổn định về mặt tổ chức và nhân sự. Nhiệm vụ đặt ra cho Vạn Xuân lúc này là tích cực đẩy mạnh công tác vũ trang tuyên truyền, xây dựng các đơn vị du kích tập trung phối hợp với các đại đội độc lập tổ chức tập kích các đồn bốt địch trên tuyến phòng thủ của chúng và phục kích các toán quân lưu động trên đê sông Hồng hoặc Quốclộ I. Bằng mọi biện pháp, chi bộ Đảng và Uỷ ban hành chính kháng chiến xã phải kịp thời lãnh đạo quần chúng đấu tranh chống địch càn quét, bắt phu, bắt lính, lập tề, tổ chức cứu giúp những nơi bị địch khủng bố, đồng thời vận động nhân dân tăng gia sản xuất, phát triển phong trào bình dân học vụ, vệ sinh phòng bệnh và xây dựng nếp sống mới. Được sự hỗ trợ của Uỷ ban hành chính kháng chiến và lực lượng vũ trang huyện Trấn Nam [2], phong trào đấu tranh vũ trang của Vạn Xuân ngày càng phát triển và trưởng thành về mọi mặt. Lực lượng dân quân du kích của Vạn Xuân đã lên tới 300 người. Trên cơ sở đó, Vạn Xuân tiến hành tổ chức một trung đội du kích tập trung được trang bị 2 súng trường, 1 khẩu tiểu liên, 2 súng lục, một số lựu đạn, mìn muỗi và mìn chống tăng. Trung đội du kích tập trung do đồng chí Phạm Văn Đoài chỉ huy. Đây chính là lực lượng nòng cốt trong phong trào đấu tranh vũ trang của Vạn Xuân. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận định: Địch càng rải ra nhiều nơi thì lực lượng địch càng mỏng manh, ta càng sẵn cơ hội đánh du kích để tiêu diệt nó dần dần... Từ giữa năm 1948 trở đi, quân Pháp lâm vào tình thế bị động đối phó với những đòn tập kích của dân quân tự vệ và du kích ngoại thành nhất là trên địa bàn phía Nam Hà Nội. Liên tục trong hai tháng 4 và 5-1948, du kích Vạn Xuân tổ chức những trận đánh mìn trong khu vực xóm 9 làm cho địch bị tổn thất thương vong và gây cho quân Pháp tâm lý sợ hãi hoang mang. Chúng không dám tự do đi lại vơ vét cướp bóc và sát hại đồng bào ta.
Cuối năm 1948, chủ trương phá bốt, diệt tề của Đảng đã thu được kết quả rất đáng phấn khởi. Bọn tề phản động ở Nam Dư Thượng, Lĩnh Nam nhiều lần bị cảnh cáo, trừng trị không dám ra mặt chống đối cách mạng. Nhiều người tình nguyện bí mật giúp đỡ cho các đội dân quân du kích làm nhiệm vụ đánh Pháp. Thực hiện chủ trương chung trong công tác triệt để phá tề trừ gian, từ ngày 23-12-1948 đến 6-1-1949, nhân dân Lĩnh Nam đã cùng với nhân dân quận VI Trấn Nam mở đợt tổng phá tề, thu toàn bộ thẻ căn cước để địch không kiểm soát được dân. Bộ máy ngụy quyền của địch mới lập nên ở Lĩnh Nam bị giáng một đòn nặng nề. Cơ sở kháng chiến ở Lĩnh Nam được củng cố và ngày càng mở rộng. Lĩnh Nam , Vạn Xuân trở thành những khu an toàn ngay cửa ngõ ra vào Thủ đô. Phong trào chiến tranh du kích ở đây ngày càng phát triển và diễn ra sôi động cả chiều rộng lẫn chiều sâu.
Ở Thúy Lĩnh, hoạt động quân sự diễn ra mạnh mẽ và rộng khắp ngay từ đầu năm 1947. So với nhiều địa phương khác trong khu vực ngoại thành phía Nam Hà Nội, điều kiện tự nhiên của Thúy Lĩnh rất phù hợp với sự phát triển hình thái chiến tranh du kích. Xét về mặt địa hình, Thúy Lĩnh giữ một vị trí trọng yếu trên tuyến giao thông huyết mạch phía Nam Hà Nội, từ nội thành ra ngoại thành và ngược lại. Bãi sậy Thúy Lĩnh từng là nơi hoạt động, ẩn náu của nhiều cán bộ ta từ hậu phương về Hà Nội trong những ngày tiền khởi nghĩa và trong thời kỳ kháng chiến. Phía Đông Thúy Lĩnh là bến đò ngang nối Thúy Lĩnh với khu vực phía bắc sông Hồng. Vị trí này rất thuận lợi cho ta vận chuyển vũ khí, lương thực cũng như đưa đón nhân dân tản cư sơ tán khi có chiến sự ác liệt diễn ra trên địa bàn.
Khi bắt đầu mở rộng cuộc chiến ra vùng ngoại thành, thực dân Pháp đã đặt Thúy Lĩnh trong kế hoạch xâm chiếm phục vụ ý đồ chiến lược về mặt quân sự. Mục đích của Pháp là tiến hành những cuộc càn quét vây ráp ráo riết ở Thúy Lĩnh, nhanh chóng chiếm đóng địa bàn và xây dựng bộ máy ngụy quyền kìm kẹp nhân dân, dập tắt phong trào kháng chiến đang phát triển rất mạnh ở đây, từ đó đánh nống dần ra các vùng lân cận dọc theo đê sông Hồng xuôi xuống phía Nam hòng cắt đứt và phong tỏa mạng lưới giao liên của ta từ nội thành ra vùng hậu phương lớn. Nhiệm vụ của ta là phải kiên quyết giữ vững cơ sở kháng chiến Thúy Lĩnh, không cho Pháp xâm phạm và chiếm đóng địa bàn; không ngừng đẩy mạnh công cuộc kháng chiến, kiến quốc ở Thúy Lĩnh lên một bước mới. Do đó trong bất kỳ hoàn cảnh nào, lực lượng vũ trang Thúy Lĩnh luôn được củng cố tăng cường sẵn sàng chiến đấu khi địch tới hoặc phải thường xuyên tổ chức các hoạt động đánh địch. Bên cạnh đó, công tác tuyên truyền giáo dục, vận động toàn thể nhân dân tích cực tham gia kháng chiến cũng được chi bộ Đảng và Uỷ ban hành chính kháng chiến coi là một trong những yêu cầu rất cấp thiết.
Ngay đầu năm 1948, du kích Thúy Lĩnh đã cùng du kích Nam Dư Hạ thường xuyên tổ chức những trận tập kích đánh phá ở bốt Bùm Tum (Nghè Bà), có những trận diễn ra liên tục trong 5 ngày đêm buộc địch phải rút bỏ bốt này, quân lính ở các bốt khác không dám lùng sục cướp bóc. Đầu năm 1948, cùng với các tổ chức quần chúng, du kích tự vệ Thúy Lĩnh thực sự đóng vai trò nòng cốt trong công tác chống phá tề, chống bắt dân chụp ảnh, ngăn chặn những kẻ hoang mang dao động đi theo giặc xin lập tề. Có thể nói, trong phong trào phá tề trừ gian của nhân dân Quận VI, Thúy Lĩnh là địa phương đi tiên phong. Hoạt động trên của du kích Thúy Lĩnh không chỉ bó hẹp trong phạm vi xã nhà mà còn có tác dụng rất tích cực đến phong trào các vùng lân cận. Trong đợt tổng phá tề, Thúy Lĩnh đã đưa lực lượng du kích xuống Yên Duyên phối hợp cùng xã bạn diệt bọn chỉ điểm, bọn ác ôn; trừng trị những kẻ tham gia bộ máy chính quyền địch đang có những hành vi chống đối lại đường lối kháng chiến của nhân dân ta.
Hòa chung vào không khí kháng chiến khẩn trương sôi nổi của du kích tự vệ và lực lượng vũ trang Quận VI, từ tháng 4-1948 trở đi, phong trào kháng chiến ở Thúy Lĩnh đã phát triển lên một bước mới. Thế trận chiến tranh nhân dân được hình thành ở Thúy Lĩnh. Tháng 4-1948 dưới sự chỉ huy của đồng chí Quốc, cán bộ quân sự quận, du kích Thúy Lĩnh cùng lực lượng vũ trang quận tổ chức hàng loạt hoạt động phá hoại gây rối địch như cắt đường dây điện thoại của địch, làm tê liệt hệ thống thông tin liên lạc của chúng; tập kích đánh địch ở bốt Mai Động. Tháng 5-1948 ta phục kích đánh đội tuần tiễu địch ở Phà Đen. Địch bỏ chạy, ta bắt sống tên quan hai Pháp, thu 1 súng lục, giải tù binh về hậu phương an toàn. Tiếp đó, du kích Thúy Lĩnh cùng du kích quận VI đánh đồn Cầu Dền làm chết và bị thương 3 tên. Cũng trong tháng 5, dưới sự chỉ huy của đồng chí Tấn Lĩnh, bộ đội Lĩnh Nam đã phối hợp với du kích Thúy Lĩnh đem Bazoka bắn vào Đồn Thủy gây cho địch những thiệt hại đáng kể. Tháng 7-1948, ta tổ chức đánh địch ở nhà thờ Khuyến Lương, quấy rối tiêu hao sinh lực địch. Sau đó, cùng đội biệt động nội thành do đồng chí Quốc chỉ huy đánh vào nhà bò Milô - đồn Thủy phá hủy 17 gian nhà và làm chết 160 con bò của địch. Tháng 8-1948, ta phối hợp với Trung đoàn 48 đánh địch ở Tương Mai, Chợ Mơ, nhà máy rượu...Cũng trong tháng 8, ta tổ chức tập kích bốt Miếu bóng. Trận đánh không thành, đồng chí Đỗ Văn Vi bị hy sinh. Năm 1949, ta đánh mìn ở đê nghè Thúy Lĩnh làm hư hỏng 1 xe địch. Cùng thời gian này quân dân Lĩnh Nam đặt mìn đánh địch đi tuần tiễu, tiêu diệt 1 tên. Cũng trong năm 1949, du kích Lĩnh Nam tổ chức phục kích, đánh địch ở Cầu Nghè. Trận đánh không thành, đồng chí Đỗ Văn Miến hy sinh, đồng chí Đỗ Văn Hường bị thương. Trong thời gian này, du kích Lĩnh Nam cùng đội tuyên truyền xung phong tập kích bốt Mơ, gọi hàng được 2 lính lê dương đưa về hậu phương.
Sự phát triển mạnh mẽ của phong trào kháng chiến ở Thúy Lĩnh không chỉ làm thất bại âm mưu lập tề tổ chức bộ máy ngụy quyền ở đây mà còn tạo nên những ảnh hưởng to lớn, tác động sâu sắc công cuộc kháng chiến kiến quốc toàn vùng. Khẩu hiệu "Làm chủ ngoại thành ban đêm tiến lên làm chủ ngoại thành ban ngày" mà Thành uỷ và Đảng bộ Hà Nội vạch ra đã được thực hiện khá triệt để ở Thúy Lĩnh.
Nhằm mở rộng phạm vi chiếm đóng ra khu vực ngoại thành, nhất là địa bàn phía Nam Hà Nội, thực dân Pháp liên tục mở những đợt càn lớn vào Thúy Lĩnh. Trong trận càn tháng 5-1948, Pháp huy động tới 300 quân, dùng súng cối bắn chặn đường rồi cho quân tràn vào Thúy Lĩnh. Do công tác chuẩn bị chu đáo, trong tư thế luôn sẵn sàng đón đánh quân địch, du kích tự vệ Thúy Lĩnh vừa tổ chức chặn giặc đẩy lui nhiều đợt tấn công của chúng, vừa giúp đỡ nhân dân tản cư sơ tán cất giấu tài sản, bảo vệ an toàn tính mạng tài sản của nhân dân. Cuộc càn quét vây ráp của thực dân Pháp vào Thúy Lĩnh đã không mang lại kết quả như chúng mong muốn. Sau khi đốt phá 4 ngôi nhà dân, quân Pháp buộc phải rút khỏi Thúy Lĩnh mang theo hơn 10 người dân (phần lớn là những người già) về bốt tra khảo, nhưng không khai thác được tin tức gì, chúng đành phải thả về.
Từ ngày 13-8 đến 20-8-1948, quân Pháp tổ chức 2 trận càn lớn trên địa bàn Thúy Lĩnh. Chúng thẳng tay đàn áp, đốt phá cướp bóc và bắn giết một số người dân vô tội. Nhưng súng đạn và tội ác dã man của kẻ thù chỉ càng gây thêm lòng căm phẫn, càng nung nấu thêm ý chí diệt thù trong hầu hết các tầng lớp nhân dân Thúy Lĩnh. Cơ sở kháng chiến của ta vẫn được giữ vững, lực lượng dân quân du kích được bảo toàn và ngày càng dày dạn kinh nghiệm tác chiến qua một số trận tổ chức chống càn và giúp dân tản cư tránh giặc.
Trước sự trưởng thành về mọi mặt của phong trào, nhằm tăng cường sự lãnh đạo của chi bộ Đảng địa phương trong tình hình cách mạng mới, tháng 10-1948, dưới sự chỉ đạo của Quận ủy quận VI, chi bộ ghép Nam Thúy được tách ra làm 2 chi bộ: Chi bộ Hồ Đình Tam (Thúy Lĩnh) và chi bộ Hồ Đình Nhất (Nam Dư Hạ) hoạt động độc lập trên từng địa bàn. Đội ngũ đảng viên của từng chi bộ cơ sở ngày càng tăng nhanh về số lượng và nâng cao về chất lượng. Đó chính là những hạt nhân nòng cốt đã từng được tôi luyện trong khói lửa chiến tranh, được giáo dục, giác ngộ lý tưởng cách mạng. Tinh thần và ý chí chiến đấu của họ đã được thử thách trong những năm kháng chiến cam go nhất. Chi bộ Đảng thực sự trở thành bộ tham mưu tối cao, là chỗ dựa vững chắc của phong trào kháng chiến, kiến quốc ở Thúy Lĩnh.
Thực hiện chỉ thị của Trung ương về nhiệm vụ, phương châm công tác trong thành phố, các trung tâm quân sự, chính trị, kinh tế đang bị địch tạm chiếm, tháng 3 -1949, Hội nghị cán bộ mở rộng của Đảng bộ Thành phố Hà Nội đã họp và quyết định: Đẩy mạnh công cuộc kháng chiến trong toàn thành, biến Hà Nội, hậu phương của địch thành một chiến trường quan trọng, tiêu hao sinh lực địch, phá hoại cơ sở kinh tế, chính trị, quân sự của địch, đánh phá tiến tới làm tan rã bộ máy ngụy quyền... Đồng thời, tích cực phát triển lực lượng của Đảng và quần chúng ở các địa phương, các khu phố, trong các nhà máy, xí nghiệp… Nhiệm vụ trước mắt đặt ra trong chương trình tổng phản công của Hà Nội là củng cố ngoại thành thành một hàng rào bao vây, tạo nên một bàn đạp vững chắc để tiến công vào nội thành. Trên cơ sở nhiệm vụ và định hướng công tác mới, phong trào kháng chiến ở Quận VI được củng cố và tổ chức lại. Chấp hành chủ trương trên, căn cứ vào vị trí địa lý tự nhiên, hoàn cảnh lịch sử của các xã trong khu vực, Quận ủy và Uỷ ban hành chính kháng chiến quận đã tiến hành sắp xếp lại các đơn vị hành chính cấp xã. Tổ chức Liên xã ra đời trên cơ sở một số xã có địa dư liền nhau và trực thuộc các miền kháng chiến. Nhằm kiện toàn tổ chức từng miền, Thành uỷ và Quận ủy đã tăng cường cán bộ từ ngoài vào, kết hợp với công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tại chỗ, xây dựng nên một đội ngũ cán bộ cốt cán làm nòng cốt của phong trào và làm cơ sở xây dựng tổ chức Đảng cho miền, cho xã.
Tháng 5 -1949, hai xã Thúy Lĩnh và Nam Dư Hạ sáp nhập thành xã Lĩnh Nam . Công cuộc kháng chiến, kiến quốc ở Lĩnh Nam đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của chi bộ Đảng Lĩnh Nam . Chi bộ Lĩnh Nam lúc này có 50 đảng viên do đồng chí Trần Văn Sinh (tức Mông) làm Bí thư. Chi bộ có hai phân chi: Phân chi Nam Dư Hạ (Hồ Đình Nhất) và phân chi Thúy Lĩnh (Hồ Đình Tam) do đồng chí Lê Văn Tuất làm Bí thư. Lúc này ông Trần Văn Bằng làm Chủ tịch Uỷ ban kháng chiến, ông Vũ Văn Khắc làm Chủ tịch Việt Minh. Trong năm 1949, chi bộ Vạn Xuân và Lĩnh Nam là 2 trong 5 chi bộ được Thành ủy Hà Nội công nhận là chi bộ tự động công tác .
Từ đầu năm 1949 đến giữa năm 1951, chiến tranh du kích trên địa bàn Lĩnh Nam phát triển rất mạnh. Dưới sự lãnh đạo của chi bộ Vạn Xuân, Lĩnh Nam và của các chi bộ cơ sở bộ máy chính quyền nhân dân, các tổ chức quần chúng được củng cố. Lực lượng vũ trang của Lĩnh Nam ngày càng trưởng thành cả về quân số cũng như kỹ thuật tác chiến của từng cá nhân. Hoạt động chủ yếu của các đơn vị du kích Lĩnh Nam trong thời kỳ này là thường xuyên tổ chức những trận tập kích phục kích, đánh mạnh vào những nơi sơ hở của địch, kết hợp với công tác phá tề trừ gian. Luôn đề phòng mọi tình huống địch có thể đánh tới, chuẩn bị sẵn sàng giúp dân chống càn và làm nhiệm vụ bảo vệ an toàn cho các lực lượng của ta từ hậu phương theo hướng sông Hồng về Hà Nội. Bên cạnh công tác chiến đấu, du kích Lĩnh Nam còn tích cực tham gia công tác rải truyền đơn, tuyên truyền đường lối kháng chiến của Đảng ta, vận động nhân dân hăng hái tham gia sản xuất, đóng góp sức người sức của vào công cuộc kháng chiến kiến quốc. Kết hợp tốt nhiệm vụ chiến đấu với sản xuất, chiến đấu để giữ đất, giữ làng bảo vệ sản xuất, vận động nhân dân, làm tốt công tác nuôi quân đánh giặc... Phong trào rào làng kháng chiến ở Lĩnh Nam đã trở thành nhân tố điển hình của Quận VI. Ngày 27-3-1949, du kích Lĩnh Nam được Chính phủ tặng thưởng Huân chương quân công hạng Ba. Đây là sự ghi nhận thành tích to lớn mà Đảng và Nhà nước giành cho quân dân Lĩnh Nam trong sự nghiệp kháng chiến vĩ đại của dân tộc.
Trên cơ sở lực lượng vũ trang xã ngày càng phát triển, tháng 7 -1949, Trung đội du kích tập trung Lĩnh Nam được thành lập do đồng chí Bạch làm Trung đội trưởng, đồng chí Thọ làm Trung đội phó. Trang bị vũ khí gồm có 2 súng trường, 2 súng lục và một số lựu đạn chày, mìn muỗi. Vũ khí tuy thô sơ và còn thiếu nhiều so với lực lượng được phiên chế nhưng du kích Lĩnh Nam đã nhiều phen làm cho quân Pháp kinh hồn bạt vía. Trong năm 1949, cơ sở kháng chiến Lĩnh Nam cũng được giữ vững, du kích hoàn toàn làm chủ địa bàn cả ngày lẫn đêm. Bọn tề ngụy do Pháp lập nên không dám ra tay phá hoại hoặc chỉ điểm cho Pháp đàn áp phong trào. Thậm chí một số tề được tuyên truyền giác ngộ đã quay sang bí mật hợp tác với ta.
Các hoạt động đánh địch do đội du kích tập trung ở Lĩnh Nam , Vạn Xuân tổ chức diễn ra khá quyết liệt trong những tháng cuối năm 1949, đầu năm 1950. Đó là trận phục kích giật mìn, lật đổ xe chở vũ khí của Pháp, tiêu diệt tên lái xe và lính áp tải diễn ra trước cổng Nghĩa trang Trung Kỳ hợp thiện (đối diện cổng Nhà máy dệt 8-3 ngày nay) vào tháng 7-1949. Tiếp đó, tháng 10 -1949, lực lượng vũ trang Vạn Xuân do đồng chí Dương Văn Cảnh (tức Xuân Trường) chỉ huy đã đặt mìn đánh phục kích địch tại điếm Nam Dư Thượng, tiêu diệt tên quan ba Pháp thu hồi vũ khí... Khi quân Pháp đưa quân về làng đàn áp đốt phá, du kích Lĩnh Nam đã kịp thời phối hợp du kích Vạn Xuân hỗ trợ giúp đỡ nhân dân tránh giặc.
Đi đôi với các hoạt động quân sự phá tề trừ gian, Vạn Xuân còn chú trọng công tác địch vận. Năm 1949, Ban địch vận của xã được thành lập do đồng chí Lê Thị Vân Tiến phụ trách. Được sự hỗ trợ của Ban địch vận quận, thành phố, nhiều truyền đơn sách báo về địch vận đã được chuyển về xã rồi qua tay cán bộ địch vận của ta phát tán vào tận vị trí địch trong các đồn bốt. Kết quả đến tháng 6 năm 1949 ta đã vận động được hai lính Pháp mang theo vũ khí bỏ ngũ, được đưa ra vùng hậu phương an toàn.
Công tác phá hoại và bao vây kinh tế địch cũng được đẩy mạnh ở Lĩnh Nam . Cán bộ tuyên truyền của ta đã tích cực vận động nhân dân tẩy chay hàng hóa địch, không bán các loại lương thực thực phẩm cho địch; cất giấu phân tán lương thực không để lọt vào tay địch khi chúng càn tới... Cùng với Thanh Trì, Vạn Xuân, Lĩnh Nam đã làm tốt công công tác triệt hại kinh tế địch. Đầu năm 1949, ta đã bắt và tiêu hủy đàn bò sữa hơn 100 con của Pháp.
Xác định đúng đắn đường lối kháng chiến của Đảng, bên cạnh công tác chiến đấu giữ đất, giữ dân bảo vệ sản xuất, chi bộ Đảng và chính quyền xã Lĩnh Nam cũng đặc biệt quan tâm đến các lĩnh vực kinh tế, văn hóa. Vừa sản xuất vừa chiến đấu là phương châm hành động thiết thực nhất của mỗi người dân Lĩnh Nam trong thời chiến. Xuất phát từ điều kiện kinh tế của địa phương, nhằm thúc đẩy và huy động tối đa năng lực sản xuất của từng người dân, thực hiện chính sách "người cày có ruộng" - ước mơ ngàn đời của người nông dân, đầu năm 1950, Chi bộ Đảng Lĩnh Nam lãnh đạo chính quyền xã tổ chức việc chia ruộng cho dân. Ban chia ruộng do ông Vũ Văn Khắc phụ trách và ông Lê Văn Văn là thư ký, tiến hành thực hiện công tác nắm bắt tình hình kê khai ruộng đất, tổ chức tuyên truyền sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân về chính sách quân cấp ruộng đất công. Chi bộ Đảng Thúy Lĩnh chủ trương thu hồi toàn bộ công điền cũ, kiểm kê lại toàn bộ số ruộng hiện có và đem chia đều cho tất cả các thành viên trong thôn từ 18 tuổi trở lên không phân biệt nam, nữ. Trong đợt chia ruộng này, mỗi người được hưởng 2 sào ruộng công. Riêng số ruộng đất ở Bãi Nghè (Thúy Lĩnh), với diện tích khoảng 10 mẫu, dành để chia cho những người từ 17 tuổi trở xuống. Đến tháng 10 -1950, việc chia ruộng ở Thúy Lĩnh - Lĩnh Nam đã hoàn thành tốt đẹp. Nhân dân càng thêm phấn khởi tự tin vào chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Uy tín lãnh đạo của Chi bộ Đảng và chính quyền ở Lĩnh Nam ngày càng được củng cố.
Trên lĩnh vực văn hóa, giáo dục, Lĩnh Nam cũng đã thu được những thành tựu rất đáng khích lệ. Mặc dù trong điều kiện chiến tranh khốc liệt nhưng phong trào bình dân học vụ ở Lĩnh Nam trong những năm 1948-1950 vẫn được duy trì đều đặn. Được sự giúp đỡ của các cán bộ nằm vùng vừa hoạt động kháng chiến, vừa trực tiếp tham gia dạy học, trình độ dân trí của Lĩnh Nam ngày càng được nâng cao. Những hủ tục lạc hậu tồn tại bao đời nay ở nông thôn dần được xóa bỏ. Các tổ chức đoàn thể cũng đã có nhiều sáng kiến giúp dân học như tổ chức ngăn đường hỏi chữ trong lúc dân đi làm về, đi chợ..., Trên cơ sở đó, kết mở rộng tuyên truyền đường lối kháng chiến của Đảng.
Nhìn chung, phong trào kháng chiến kiến quốc ở Lĩnh Nam phát triển đồng đều trên mọi phương diện sản xuất, chiến đấu và xây dựng nếp sống mới. Tính đến tháng 1-1950, Đảng bộ thành phố Hà Nội có 30 chi bộ với 3.198 đảng viên, riêng Chi bộ Vạn Xuân có số lượng đảng viên đông nhất, với 240 đảng viên[3] và Lĩnh Nam có 96 người. Đây là một thuận lợi cơ bản giúp cho Vạn Xuân, Lĩnh Nam duy trì tốt phong trào kháng chiến, kiến quốc kể cả vào thời điểm gay go nhất.
Bước sang năm 1950, thực dân Pháp tăng cường thêm viện binh để bảo vệ Hà Nội. Tổng cộng số quân Pháp phòng thủ Hà Nội lên đến gần 2 vạn tên và gần 1.000 tên ngụy quân được trang bị vũ khí hiện đại gồm máy bay chiến đấu các loại, xe tăng, xe bọc thép và nhiều phương tiện chiến tranh khác. Từ ngày 27-4-1950, thực dân Pháp mở chiến dịch Đa-vít thực hiện âm mưu đánh chiếm toàn bộ vùng ngoại thành Hà Nội và một số tỉnh thuộc đồng bằng Bắc Bộ bao quanh Hà Nội, nhằm biến ngoại thành thành "vành đai trắng", bảo vệ cho nội thành. Ở khu vực ngoại thành phía Nam Hà Nội, từ tháng 7-1950, quân Pháp thiết lập thêm 3 bốt: bốt Lò Bát, bốt Yên Lương và bốt Đông Phù, tăng cường sự kìm kẹp và o ép phong trào kháng chiến của ta. Hàng ngày bọn lính trên các bốt này cùng với bốt Vọng, Vĩnh Tuy thường xuyên tổ chức những cuộc sục sạo càn quét, khủng bố và cướp bóc ở Lĩnh Nam, Vạn Xuân... gây cho ta nhiều thiệt hại lớn về người và của cải. Tuy vậy, tinh thần kháng chiến của nhân dân Lĩnh Nam vẫn không hề nao núng. Trung đội du kích tập trung vẫn phát huy cao độ tinh thần chủ động tìm địch mà đánh. Giữa ban ngày, du kích Lĩnh Nam đã cải trang thành ngụy quân xuống làng Yên Mỹ phối hợp với lực lượng ở đây công khai tiêu diệt bọn bảo an, tề ngụy. Tháng 1- 1950, du kích Lĩnh Nam hỗ trợ cho Tiểu đoàn chủ lực 108 đánh sân bay Bạch Mai, đánh mìn làm sập cầu Vọng (phố Đại La), đồng thời, đặt mìn đánh địch cứu viện trường bay Bạch Mai tại cửa Chợ Mơ làm bị thương 12 tên địch. Tháng 6-1950, du kích Lĩnh Nam lại phối hợp cùng du kích Khuyến Lương và quận VI diệt bốt bảo an Yên Mỹ, giết 1 tên Việt gian ác ôn.
Từ giữa năm 1950 trở đi trong tình hình chung của chiến trường Hà Nội, phong trào kháng chiến ở Lĩnh Nam , Vạn Xuân bắt đầu gặp nhiều khó khăn. Thực dân Pháp thường xuyên huy động những đội quân cơ động có khi lên tới hàng ngàn tên có xe tăng máy bay yểm trợ đánh vào địa bàn. Trong những cuộc vây ráp, càn quét như vậy, chúng thẳng tay đàn áp và bắn giết nhân dân ta hòng biến Lĩnh Nam , Vạn Xuân thành vành đai trắng. Trước sự khủng bố dã man của kẻ thù, trong hàng ngũ kháng chiến của ta đã nảy sinh tư tưởng hoang mang dao động ở một số cá nhân. Thậm chí có kẻ ra mặt phản động, cam tâm làm tay sai cho Pháp phá hoại phong trào. Do công tác phòng gian bảo mật của ta còn sơ hở, do sự chỉ điểm của một số kẻ phản bội mà nhiều cơ sở kháng chiến, nhiều hầm bí mật của ta bị địch phát hiện. Một số đồng chí đảng viên trung kiên đã bị sa vào tay giặc vẫn giữ vững khí tiết cách mạng, trung thành với Đảng với dân, nêu tấm gương hy sinh cao cả như đồng chí Lưu Bách Thắng. Đồng chí Doanh, cán bộ quân sự của quận được điều về Vạn Xuân phụ trách công tác huấn luyện quân sự cho dân quân du kích xã, khi bị địch truy lùng vây bắt ráo riết, đồng chí ẩn náu ở tam quan chùa Nam Dư Thượng, dùng lựu đạn chống trả địch rất quyết liệt. Đồng chí đã anh dũng hy sinh sau khi tung trái lựu đạn cuối cùng vào quân giặc.
Chiến dịch vây ráp, càn quét của thực dân Pháp trong mùa hè và mùa thu năm 1950 đã phá vỡ thế cài răng lược trên chiến trường Hà Nội, dồn lực lượng vũ trang Hà Nội vào một tình thế hiểm nghèo. Kể từ ngày đầu Toàn quốc kháng chiến đến nay, đây là thời điểm phong trào kháng chiến ở Hà Nội gặp khó khăn lớn nhất. Trước tình thế đó, giữa tháng 6 -1950, Thành ủy Hà Nội và Ban chỉ huy mặt trận Hà Nội mở cuộc họp liên tịch để phối hợp hành động đối phó với địch. Về phương châm hoạt động của lực lượng vũ trang địa phương, Thành ủy và Ban chỉ huy mặt trận đã quyết định: Phân tán nhỏ lực lượng, cùng du kích và chính quyền bám địa bàn, bám dân, củng cố gây dựng lại phong trào. Ngày 21-7-1950, Thành uỷ và Ban chỉ huy mặt trận Hà Nội đã ra Chỉ thị "Xây dựng khu kháng chiến liên hoàn". Ta dự kiến thực hiện ở ba khu vực ngoại thành, trong đó khu vực một gồm các xã Vạn Xuân, Hà Lĩnh và Lĩnh Nam . Tuy nhiên do ta chưa có lực lượng vũ trang tại chỗ để có thể làm nòng cốt cho quần chúng nhân dân trên một địa bàn đồng bằng, ngay sát trung tâm hậu phương chiến lược của địch, nơi chúng có thể dễ dàng điều động lực lượng quân sự để giải tỏa, cho nên việc xây dựng khu kháng chiến liên hoàn ở ngoại thành Hà Nội thực hiện không thành công cũng là một thực tế.
Từ cuối năm 1950 trở đi, trong tình hình chung của phong trào kháng chiến Hà Nội, phong trào ở Lĩnh Nam, Vạn Xuân và các địa phương khác bắt đầu có dấu hiệu sa sút. Sau khi thất bại nặng nề ở chiến trường biên giới, thực dân Pháp dồn quân, co cụm phòng giữ vùng đồng bằng Bắc Bộ và mở rộng những cuộc đánh chiếm với quy mô lớn. Đối với khu vực ngoại thành phía Nam Hà Nội chúng tập trung quân khủng bố rất dữ dội miền ngoài đê sông Hồng từ Thanh Trì xuống đến Vạn Phúc. Bên kia sông, địa bàn Bát Tràng, Thổ Khối cùng bị tàn sát rất khốc liệt. Hầu như phong trào ở các nơi này đều tan vỡ. Ở Lĩnh Nam , riêng Thúy Lĩnh vẫn giữ được cơ sở. Cán bộ kháng chiến ở các xã như Duyên Hà, Bát Tràng, Yên Mỹ khi phong trào đổ vỡ đã dồn về Thúy Lĩnh. Nhiệm vụ của Lĩnh Nam lại càng trở nên nặng nề. Ngoài việc phải bảo vệ nhân dân, bảo vệ cán bộ địa phương, dưới sự lãnh đạo của chi bộ và chính quyền, du kích Lĩnh Nam phối hợp cùng với các tổ chức quần chúng đào hầm hố, sắp xếp nơi ăn chốn ở và bảo vệ tính mạng cho các đồng chí lãnh đạo các xã mới dồn về. Hầm bí mật được đào ở mọi nơi, có những hầm đào đến ba tầng để bảo vệ những cán bộ chủ chốt. Ở nhiều cơ sở tôn giáo như đình, chùa cũng trở thành những nơi che giấu cán bộ. Hầm bí mật được đào ở vườn chùa, nền chùa thậm chí dưới nền hậu cung, là nơi tôn nghiêm nhất. Như vậy, cho đến lúc này, Thúy Lĩnh là cơ sở kháng chiến tạm thời còn trụ vững, là nơi lập trung cơ quan kháng chiến đầu não của nhiều địa phương, do đó Thúy Lĩnh cũng trở thành mục tiêu càn quét vây ráp ráo riết của thực dân Pháp. Tháng 1-1951, thực dân Pháp bắt đầu mở những cuộc tấn công quy mô lớn vào Thúy Lĩnh. Lợi dụng nước sông Hồng lên cao, chúng cho ca nô chở quân áp vào bãi Thúy Lĩnh, tràn vào làng, cướp bóc, vơ vét lương thực, chà xát ruộng vườn sục sạo tìm kiếm hầm bí mật, lùng bắt cán bộ. Nhiều cán bộ chủ chốt, nhiều quần chúng tích cực của phong trào kháng chiến Lĩnh Nam đã rơi vào tay giặc. Nhằm khống chế đường tiếp vận của ta từ hậu phương về Hà Nội qua bãi Thúy Lĩnh, thực dân Pháp đã tăng cường bố phòng hai bốt ở đình Thúy Lĩnh và bốt Khuyến Lương chia quân ngày đêm tuần tiễu lùng sục bắt bớ và phong tỏa các ngả ra vào.
Lúc này, công tác tuyên truyền vận động nhân dân ra sức bảo vệ cán bộ được chi bộ Đảng và chính quyền Lĩnh Nam coi là nhiệm vụ cấp bách hàng đầu. Các đồng chí cán bộ ở thành phố, quận và các xã lân cận qua lại Thúy Lĩnh đều được nhân dân hết sức giúp đỡ. Phong trào hầm bí mật nuôi giấu cán bộ được phát động sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân. Nhiều gia đình ở Thúy Lĩnh đều trở thành những cơ sở nuôi giấu cán bộ thời kỳ 1950- 1951. Được nhân dân Lĩnh Nam chở che, bảo vệ và giúp đỡ tận tình, nhiều cán bộ cốt cán của thành phố, của quận đã nhanh chóng trở lại đội ngũ chiến đấu. Ban chỉ huy các xã Yên Mỹ, Duyên Hà và lực lượng du kích Bát Tràng sau hơn 1 năm được nhân dân Lĩnh Nam cưu mang đùm bọc và hết lòng bảo vệ đã trở về xây dựng củng cố lại phong trào kháng chiến tại xã nhà.
Lợi dụng phong trào địa phương gặp nhiều khó khăn, ở Lĩnh Nam, lực lượng bất mãn phản động gồm 18 tên nổi dậy hoạt động. Chúng câu kết với địch công khai ra lập đội bảo an, quân số lên tới 40 tên. Chúng xây dựng bốt bảo an, dựa vào thế lực quân Pháp ra sức chống phá, trả thù những người kháng chiến. Một số đảng viên cùng nhiều quần chúng tích cực đã bị địch bắt và bị tra tấn rất dã man. Có người không chịu được cực hình buộc phải khai báo, chỉ điểm các hầm bí mật. Phần lớn đảng viên của Lĩnh Nam đã sa vào tay giặc. Các đảng viên trung kiên mặc dù bị giặc tra tấn rất tàn khốc nhưng vẫn giữ vững chí khí cách mạng và đã anh dũng ngã xuống trước họng súng quân thù. Từ tháng 7-1951, trong tình hình chung của phong trào kháng chiến quận ngoại thành và của Hà Nội, phong trào ở Lĩnh Nam tạm thời lắng xuống. Đường dây liên lạc giữa hậu phương với nội thành Hà Nội qua bãi Thúy Lĩnh, qua Lĩnh Nam hoàn toàn bị gián đoạn.
Thực hiện chủ trương chuyển hướng phương thức đấu tranh của Thành ủy Hà Nội, đội ngũ cán bộ nòng cốt của Lĩnh Nam còn lại rút vào hoạt động bí mật, ra sức tranh thủ quần chúng, phục hồi và phát triển cơ sở trong lòng địch. Trên cơ sở tích cực tuyên truyền giác ngộ quần chúng, tổ chức Đảng ở Lĩnh Nam đã không ngừng động viên các tầng lớp nhân dân trong xã tận dụng cơ hội tổ chức những hình thức đấu tranh hợp pháp trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, nhằm phá vỡ âm mưu "lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt" của thực dân Pháp. Hoạt động quân sự của Lĩnh Nam thời kỳ này chủ yếu là đi vào công tác nắm tình hình địch cung cấp lên trên, tổ chức đấu tranh chống sự vơ vét của địch, vận động mọi người không đi phu đắp đường, xây bốt cho địch, không tham gia bảo an, hương, dõng ...
Sống dưới ách kìm kẹp của thực dân Pháp, nhưng nhân dân Lĩnh Nam vẫn một lòng một dạ theo Đảng, tin tưởng vào thắng lợi cuối cùng của cuộc kháng chiến bảo vệ nền độc lập do Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo. Thất bại ở Điện Biên Phủ buộc thực dân Pháp phải chấp nhận đàm phán với Việt Nam ở Hội nghị Giơnevơ và đi đến ký Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở miền Bắc Việt Nam. Tối ngày 9-10-1954, xe cam nhông chở những tên lính Pháp cuối cùng qua cầu Long Biên tập kết tại Gia Lâm. 10 giờ 30 phút ngày 10-10-1954, những tên lính Pháp cuối cùng rút khỏi Gia Lâm qua địa phận ga Phú Thị. Hà Nội sạch bóng quân xâm lược. Cờ Tổ quốc tung bay khắp các thôn, xóm. Nhân dân mừng vui khôn xiết đón nhận không khí hòa bình, độc lập. Ngày 10-10-1954, trong không khí tưng bừng của ngày hội chiến thắng, nhân dân Lĩnh Nam cùng nhân dân Thủ đô nô nức đón chào Đoàn quân giải phóng về tiếp quản. Quê hương được giải phóng, trang sử mới của Lĩnh Nam trung dũng kiên cường đang mở ra với nhiều triển vọng mới.
***
Giai đoạn 1945 - 1954, nhân dân Lĩnh Nam vừa tiến hành xây dựng, củng cố chính quyền dân chủ nhân dân, vừa tích cực cùng cả nước tham gia kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Trong chín năm kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Lĩnh Nam đã vượt qua bao khó khăn thử thách, hy sinh và lập nhiều chiến công to lớn, giải phóng quê hương, góp phần vào chiến thắng chung của toàn dân tộc. Chiến công của quân và dân Lĩnh Nam góp phần tô thắm thêm lịch sử truyền thống vẻ vang của dân tộc Việt Nam qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước. Sự đóng góp, hi sinh anh dũng của những chiến sỹ du kích, cán bộ, đảng viên và nhân dân Lĩnh Nam góp phần mang đến thắng lợi to lớn trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, mang lại hòa bình cho đất nước, cho quê hương. Đó chính là cơ sở thực tiễn, là niềm tin để nhân dân Lĩnh Nam tiếp tục vững bước thực hiện những nhiệm vụ cách mạng mới trong những giai đoạn lịch sử tiếp theo.
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam : Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 8, Nxb CTQG, HN, 2000, tr 184,185.
[2] Huyện Trấn Nam được thành lập tháng 6-1948 gồm đất quận VI và 1 phần quận V cho đến quốc 1ộ số 6. Chủ tịch Ủy ban hành chính kháng chiến huyện Trấn Nam khi mới thành lập là đồng chí Phạm Dụ.
[3] Thủ đô Hà Nội - Cuộc kháng chiến chống thực Pháp (1945-1954) - Nxb Hà Nội, 1986, tr 247.